- Theo bà, sự chuyển dịch dòng lao động thời gian qua cho thấy điều gì?
- Đại dịch Covid-19 đã bộc lộ nhiều điểm yếu của thị trường lao động hiện nay mà một trong số đó, theo tôi, là sự thiếu vắng một hệ thống cơ sở dữ liệu lao động có tính kết nối, liên thông giữa bốn "nhà": chủ sử dụng lao động - đơn vị đào tạo - người lao động - cơ quan quản lý Nhà nước. Hệ thống cơ sở dữ liệu đó không chỉ là công cụ tìm kiếm hữu hiệu kiểu "người tìm việc, việc tìm người", mà còn có thể cho chúng ta nắm rõ các trường đang đào tạo những loại lao động nào với số lượng bao nhiêu. Các khu kinh tế, khu công nghiệp, lao động dịch vụ trên toàn quốc có nhu cầu bao nhiêu lao động với những tiêu chí, tiêu chuẩn thế nào, thậm chí là thời điểm nào. Vì hiện nay tính mùa vụ của thị trường lao động Việt Nam cũng rất cao.
Chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu đó nên thị trường vẫn tự do phát triển một cách manh mún, cung cầu không gặp nhau. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường lao động mà còn tạo khó khăn rất lớn cho việc xây dựng chính sách về lao động việc làm, hỗ trợ cho doanh nghiệp gặp khó khăn.
- Nhược điểm này, cùng với một số khiếm khuyết khác của thị trường lao động và an sinh xã hội cần được khắc phục như thế nào, thưa bà?
- Theo Quyết định 176/QĐ-TTg ngày 5-2-2021 về Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, năm 2026 chúng ta mới kết nối, liên thông toàn bộ hệ thống cơ sở dữ liệu. Tôi cho rằng, việc quan trọng đầu tiên là nỗ lực tối đa để chuẩn bị đẩy sớm thời hạn này, tạo điều kiện ứng phó tốt hơn với đại dịch Covid-19 cũng như những biến cố lớn khác.
Tất nhiên, cũng còn rất nhiều việc nữa phải làm để phát triển và vận hành hiệu quả thị trường lao động. Chẳng hạn như tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo. Hiện nay tỷ lệ này đạt khoảng 67%, nhưng trong đó phần lớn vẫn là đào tạo sơ cấp; tỷ lệ đào tạo có bằng cấp chứng chỉ ở mức hơn 26% thôi và nếu bóc tách người lao động có trình độ đại học ra thì các trình độ khác đều ở mức dưới 5%. Ở đây cần lưu ý đến xu hướng số hóa nền kinh tế đang diễn ra rất mạnh mẽ. Các chương trình giáo dục đào tạo, rèn luyện kỹ năng phải thích ứng với xu hướng này. Đồng thời, đến lúc tính toán đào tạo lại hoặc giải quyết lao động dôi dư khi chuyển đổi sang kinh tế số.
Bên cạnh đó, cả nước có hơn 800 nghìn doanh nghiệp, nhưng chỉ có khoảng hơn 300 nghìn doanh nghiệp, người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động. Tăng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm cho người lao động là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, xét cả từ khía cạnh an sinh xã hội lẫn chất lượng của thị trường lao động.
- Vậy còn đối với công cuộc cải cách tiền lương và điều kiện lao động của nước ta để hài hòa với các FTA đã ký kết, đang được tiến hành đến đâu, có gì cần rút kinh nghiệm?
- Hệ thống pháp luật về lao động của Việt Nam những năm vừa qua đã được chú trọng sửa đổi bổ sung rất nhiều và đã tiệm cận những quy định của thông lệ quốc tế. Mặc dù vậy, vẫn cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện pháp luật về việc làm và bảo hiểm xã hội, cụ thể là ưu tiên sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, thích ứng tốt hơn với những yếu tố mới phát sinh, mà đại dịch Covid-19 chính là một thí dụ điển hình.
- Xin cảm ơn bà!