Rừng lặng

Những cánh rừng của Việt Nam mang tính đặc trưng vùng nhiệt đới Đông - Nam Á. Điều làm nên vẻ đẹp của đại ngàn, là sự cộng sinh của đa dạng thực vật và muôn loài chim thú. Nhưng, rừng sẽ trở thành “rừng lặng”, nếu các loài động vật bị tách khỏi tổ ấm, trở thành những món lợi của con người.

Vượn cao vít, một trong những loài linh trưởng hiếm nhất trên thế giới, tại khu rừng Trùng Khánh (Cao Bằng). Ảnh: Tổ chức FFI cung cấp
Vượn cao vít, một trong những loài linh trưởng hiếm nhất trên thế giới, tại khu rừng Trùng Khánh (Cao Bằng). Ảnh: Tổ chức FFI cung cấp

Tiếng muông thú trở lại

Vượt qua những núi đá tai mèo vào vùng lõi của Khu bảo tồn vượn cao vít (huyện Trùng Khánh, Cao Bằng), cảm giác như choáng ngợp trước vẻ đẹp giầu âm sắc của núi rừng. Non trưa, khi ánh nắng bắt đầu chiếu thẳng xuyên xuống những hàng cây, anh Nguyễn Đình Sơn - Trợ lý dự án của Tổ chức Bảo tồn động, thực vật hoang dã Quốc tế (FFI) chỉ tay về phía vách núi đá đối diện, nơi có những con vượn đang giang những cánh tay dài chuyền từ cành cây này sang cành cây khác. Đó là loài vượn cao vít, chỉ tìm thấy tại khu vực rừng Trùng Khánh. Nhìn chúng tôi háo hức khi gặp loài vượn quý, ông Ban Văn Thiện, một người dân sống trong vùng đệm khu bảo tồn cho biết, người dân bản đi rừng gặp loài vượn này thường xuyên. Còn khỉ thì nhiều vô kể. “Con gái bản tôi giờ ít người dám vào rừng lấy củi lắm, nếu đi phải có đàn ông đi cùng. Nếu chỉ có đàn bà con gái giữa rừng đàn khỉ mà gặp chúng sẽ trêu ghẹo”, ông Thiện nói nghe cứ như đùa nhưng là chuyện có thật.

Trở lại xóm Pác Ngà - Bó Hay (xã Ngọc Côn, Trùng Khánh) nằm sát bìa rừng đệm khi mặt trời vừa xuống núi. Từng đàn chim bay liệng mang theo những âm thanh lạ. Ông Đinh Hà Đầu, cụ ông có uy tín trong cộng đồng người Tày giải thích: “Dân bản tôi nghe nhịp điệu tiếng chim kêu, gọi đó là chim “khó khăn, khắc phục”. Buổi sáng ban mai, nếu cứ nghe loài chim này bay ngang nhà kêu đi kêu lại thì chúng tôi muốn lười cũng không được. Nó như thức tỉnh chúng tôi dậy mà ra đồng, lên nương”. Cũng như ông Hà Đầu, nhiều người dân lớn tuổi khẳng định thời họ còn trẻ vùng rừng này có rất nhiều khỉ, vượn, gấu, nai, sơn dương. Nhưng vì nạn phá rừng, săn bắn những muông thú này dần không còn. Thế rồi, những năm gần đây khỉ, vượn, gấu đã bắt đầu trở lại. Dẫn chúng tôi tới những khu ruộng bậc thang bỏ hoang, ông Đinh Hà Sum, Bí thư chi bộ xóm Pác Ngà - Bó Hay, kiêm Tổ trưởng tuần tra rừng cho biết, nhiều năm trở lại đây khi người dân không phát rừng làm rẫy, ban đêm có rất nhiều khỉ và cả gấu, lẻn ra bìa rừng ăn hoa màu. Đuổi chúng nhiều lần không được người dân đành bỏ ruộng.

Thạc sĩ, chuyên gia bảo tồn sinh học Nguyễn Thế Cường cho biết, các khảo sát khẳng định, trong khu rừng thuộc địa phận xã Phong Nặm, Ngọc Côn và Ngọc Khê (Trùng Khánh) còn rất nhiều động vật quý hiếm, nhất là vượn đen đông bắc, còn được gọi là vượn cao vít, một trong những loài linh trưởng hiếm nhất trên thế giới, với 24 đàn, khoảng 129 cá thể. Từ khi phát hiện ra loài vượn, Tổ chức FFI đã kết hợp với chính quyền địa phương nhằm giảm thiểu các mối đe dọa để bảo tồn loài vượn và các loài quý hiếm khác thông qua việc thành lập các nhóm tuần tra rừng cộng đồng, hỗ trợ sinh kế cho người dân vay vốn chăn nuôi, giảm sự phụ thuộc của con người vào tài nguyên rừng. Cùng đó, là việc nâng cao nhận thức của người dân không vào rừng khai thác gỗ và săn bắn trái phép. “Mưa dầm thấm lâu”, nhiều người dân nay cùng tham gia bảo vệ động vật hoang dã. Hễ thấy người lạ vào rừng, thái độ lén lút là họ gọi điện báo tuần tra theo dõi. Họ tham gia cùng những người tuần rừng đi tìm kiếm, tháo bỏ những chiếc bẫy của đối tượng săn bắn động vật cài cắm giữa rừng sâu. Không ít lần bắt gặp khỉ, sơn dương mắc bẫy sống sót, họ xúm lại tìm cách băng bó vết thương rồi thả chúng trở về rừng. Đặc biệt, nhờ tuyên truyền họ đã biết sợ khi nói tới việc “ăn” thịt động vật quý hiếm.

Thay đổi thái độ cộng đồng

Nhiều cánh rừng của Việt Nam không chỉ là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật quý hiếm, mà trở thành điểm du lịch sinh thái hấp dẫn du khách nhờ sự đa dạng sinh học, như Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ), Cúc Phương (Ninh Bình), Pù Mát (Nghệ An), Cát Tiên (Đồng Nai), Tràm Chim (Đồng Tháp)... Tuy nhiên theo các nhà khoa học, rừng Việt Nam cũng chỉ còn khoảng 30 cá thể hổ. Nhiều loài khác như voi, gấu, voọc, vượn, culi, tê tê, sao la và nhiều loài linh trưởng khác cũng đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Thạc sĩ ngành sinh thái nhân văn Trần Lê Trà, hiện là Trưởng phòng Chính sách của WWF - Việt Nam khi đề cập vấn đề này đã chia sẻ, nhiều năm gần đây, các nhà bảo tồn quốc tế đã nhắc nhiều đến khái niệm “rừng lặng” để nói về những khu rừng bị săn bắn, tận diệt đến mức tĩnh lặng, không còn tiếng muông thú, tiếng chim. Đây chính là tương lai không xa của các cánh rừng ở nước ta nếu không có ngay những hành động quyết liệt từ phía các cơ quan quản lý, và nhất là phụ thuộc rất nhiều vào vai trò, thái độ “nói không” với động vật hoang dã của cộng đồng.

Thực tế cho thấy, thịt thú rừng càng khan hiếm, càng đắt đỏ thì khách có tiền lại càng lùng sục gắt gao. Vì vậy dù các cơ quan quản lý đã ban hành hàng loạt các quy định về cấm buôn bán, tiêu thụ động vật hoang dã, tăng cường thực thi pháp luật để hạn chế, nhưng một nghiên cứu thực hiện năm 2015 có sự hỗ trợ của WWF - Việt Nam đã ước tính mỗi năm có từ 3.500 đến 4.000 tấn thịt rừng đi qua thị trường nước ta, khoảng một nửa số lượng này được tiêu thụ trong nước với 80% dưới dạng “đặc sản thịt rừng”. Điều đáng nói, có không hiếm người tìm cách ăn thịt rừng là để chứng tỏ đẳng cấp, cũng như có niềm tin vào các tác dụng bồi bổ và công hiệu tăng cường sức khỏe của chúng. Trong số 329 người được hỏi ở Huế trong nghiên cứu này cho biết có 85% từng ăn thịt rừng ít nhất một lần trong đời; 68% người có sử dụng thịt rừng trong vòng 12 tháng trở lại đây. Nguy hại hơn phần lớn thịt thú rừng tiêu thụ tại nước ta có nguồn gốc từ các loài động vật bản địa bị săn, bắn, bẫy, trong đó có cả rừng thuộc khu bảo tồn, vườn quốc gia, nơi hành vi săn, bắn động vật hoang dã bị cấm và kiểm soát nghiêm ngặt.

Song, để thay đổi được hiện trạng trên không chỉ ngày một ngày hai. Tiến sĩ Võ Văn Sự - Chi hội Động vật quý hiếm Việt Nam (Hội Chăn nuôi Việt Nam) cho rằng, chúng ta cần tạo môi trường cho động vật hoang dã, nghiêm ngặt bảo vệ các khu sinh thái. Muốn vậy, cần tạo điều kiện cho người dân chung quanh các khu rừng, đặc biệt là rừng quốc gia, sinh sống hoặc nếu phải dựa vào rừng thì khai thác hợp lý tài nguyên nhưng chủ yếu là thực vật thông thường. Đặc biệt với đồng bào thiểu số sống bằng nương rẫy tại các vùng đệm, vùng lõi của rừng cần tạo các mô hình sinh kế bền vững. Bên cạnh đó các nhà khoa học cũng nên tiên phong nghiên cứu khai thác một số động vật có năng lực như đã thành công với việc nuôi chim trĩ, lợn rừng, hay nhím tại nhà.

Động vật hoang dã không mang lại sức mạnh, hoặc là phương thuốc “đặc biệt hiệu quả”, nhưng cần lắm bàn tay che chở của con người. Động vật có gia đình, tình cảm, có quyền được sống bình yên dưới những tán rừng xanh. Hãy trả lại rừng xanh những giá trị, là muôn loài muông thú được quần tụ. Đừng biến những cánh rừng tuyệt đẹp thành rừng hoang, “rừng lặng”.

Tuần tra giám sát bảo vệ động vật hoang dã. Ảnh: NGUYỄN THẾ CƯỜNG

Số liệu của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) ghi nhận vào tháng 6-2015, số loài động vật hoang dã xếp hạng cực kỳ nguy cấp của Việt Nam là 44 loài, số loài nguy cấp là 89 loài và số loài bị đe dọa là 233 loài. Mặc dù một số loài đang có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng các chuyên gia bảo tồn sinh học cho rằng chúng ta vẫn nuôi hy vọng. Thập kỷ trước, ngành công nghiệp đánh bắt cá voi làm mất đi 90% số lượng loài cá voi lưng gù, đưa chúng đến bờ vực tuyệt chủng. Nhưng hôm nay nhờ nỗ lực của công tác bảo tồn, chúng đang tăng trở lại gần với số lượng trước đây.