Ðấy là năm 1975. Ngày 30 tháng 4 dương lịch, tức là ngày 20 tháng 3 năm Ất Mão tính theo lịch âm. Thời điểm ấy đã cuối xuân, một mùa xuân lịch sử được định danh Ðại thắng. Ðại thắng mùa xuân. Ước vọng, khao khát lớn nhất của nhân dân ta đã trở thành hiện thực. Ước mơ, khao khát Tiến lên toàn thắng ắt về ta; ước mơ, khao khát Vì độc lập, vì tự do/ Ðánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào; ước mơ, khao khát Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn như Bác Hồ đã viết trong các bài thơ chúc Tết trở thành hiện thực.
Cái hiện thực lộng lẫy ấy được làm nên bởi máu xương của nhiều thế hệ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, bởi sự chia ly dằng dặc của bao cặp vợ chồng sau lễ thành hôn chưa kịp bén hơi thuộc nết, bởi niềm tin đợi chờ đôi khi chỉ từ một lời hẹn thề đầu ngõ đêm trăng lưỡi liềm mờ khuyết, bởi nỗi tự hào xót xa của những người mẹ mấy lần tiễn đưa con ra trận... Nói bao nhiêu cũng không đủ, nói bao nhiêu cũng không hết những huyền thoại đời thường ấy, chỉ biết rằng cái ngày cuối cùng của Tháng Tư năm 1975 đã vỡ òa ra nước mắt, vỡ òa ra nụ cười, vỡ òa ra ánh sáng hòa bình ngây ngất đắm say.
Có cuộc tắm máu nào đâu hỡi những kẻ thù địch thường rêu rao bôi nhọ Cách mạng. Những chiếc xe tăng có ngôi sao vàng trên nền đỏ, những người lính trận mang áo vải mầu lá cây đẫm bụi Trường Sơn, đẫm nắng gió trải dọc dài dải đất cong cong hình chữ S bên mênh mông biển Ðông rộng gần một triệu cây số vuông tiến vào thành phố Sài Gòn giữa rừng rừng cờ hoa vẫy chào của nhân dân. Xúc động. Hân hoan. Náo nhiệt. Lắng sâu. Ngày cuối cùng của Tháng Tư đã được mặc định thành ngày lịch sử trọng đại với dòng chữ mầu đỏ in trang trọng trên tờ lịch: Ngày Chiến thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước!
Ðể đi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Bác Hồ, nhân dân ta đã làm nên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, làm nên chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954. Những kỳ tích, những võ công làm cho nhân loại phải kinh ngạc ngẫm nghĩ, tốn không ít giấy mực để phân tích, lý giải. Nhưng, dù to lớn vĩ đại đến mấy thì đó vẫn là quá khứ. Sau năm 1975, dân tộc Việt Nam lại đương đầu với những thử thách nghiệt ngã ít ai ngờ mà sự hiểm nguy tới lãnh thổ, tới chế độ không hề nhỏ chút nào. Các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên biên giới và biển đảo, giúp nhân dân nước bạn láng giềng thoát khỏi nạn diệt chủng tàn bạo nhất trong lịch sử loài người tốn không ít máu xương của dân Việt. Nỗi đau xót ấy ngẫm lại càng xót đau hơn bởi ta từng đã tin rằng sau năm 1975 chiến tranh mãi mãi lui vào dĩ vãng. Chúng ta cũng đã trải qua những năm tháng kinh tế cực kỳ thảm hại, một đất nước phần lớn là nông dân, diêm dân lại thiếu gạo, thiếu muối, nói chung thiếu thốn trăm bề, lạm phát phi mã, nguy cơ đổ vỡ tất cả hiện hiển trước mắt, đáy vực tăm tối không còn xa mấy... Thế mà, dân tộc này đã vượt qua, vượt qua những gian nguy thử thách một cách nhọc nhằn nhưng khá ngoạn mục với sự vững chãi toàn vẹn của non sông, với những thành tựu quan trọng về kinh tế xã hội ta đạt được sau đổi mới, với con số nhập siêu tuy chưa nhiều nhưng cũng thật quan trọng trong mấy năm gần đây, với ngưỡng thu nhập trung bình ta đã đạt tới...
Tuy vậy, vẫn không ít mảng tối vẫn còn chiếm lĩnh trong xã hội ta hiện nay mà kể ra sẽ bị mang tiếng là biết rồi, khổ lắm, nói mãi... Nhưng sao lại không nói nữa nhỉ? Nói ra, cho ai cũng phải biết, phải thấm thía rằng máu xương của chiến sĩ đồng bào ta đổ ra trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc không phải để cho nạn tham nhũng, hối lộ, chạy chức chạy quyền tràn lan và tinh vi như hiện nay; không phải để cho đói nghèo vẫn là nỗi lo của không ít người dân lao động; không phải để cho đạo đức nhân cách con người Việt Nam bị suy thoái; không phải để cho những em bé miền núi vùng cao phải học trong những ngôi trường tuềnh toàng hun hút gió lạnh, không phải để cho những cô giáo, học sinh phải vượt suối bằng ngồi vào trong túi ni-lon do người biết bơi kéo...
Nhìn vào đâu cũng thấy khó khăn và thách thức không nhỏ, chỉ riêng mỗi việc làm gì, làm thế nào để tránh được cái bẫy nước thu nhập trung bình cũng hút bao tâm sức của chúng ta. Nỗi lo tụt hậu không phải chỉ với những quốc gia phát triển trên thế giới mà ngay với các nước trong khu vực cũng làm ta mất ăn mất ngủ. Rồi phải làm sao đây để non sông lãnh thổ vững bền toàn vẹn trong khi xung đột biên giới, biển đảo luôn tiềm ẩn những ngòi nổ bất hòa lớn nhất. Làm gì để trong hội nhập mang tính toàn cầu của một thế giới siêu phẳng như hiện tại và tương lai mà ta vẫn là ta, không tan hòa vào đâu cả. Tấm chứng minh thư Việt Nam sẽ ra sao khi nền văn hóa không giữ được cốt cách truyền thống tốt đẹp của ngàn năm dựng nước giữ nước lại bị pha trộn biến dạng tới độ lai căng không kiểm soát nổi. Những công dân toàn cầu đọc nghe nhìn trên mạng có còn là con người Việt Nam không trong muôn vàn thực ảo tốt xấu đang giao thoa từng phút, từng giây...
Ngày 30 tháng 4 sẽ trở thành vô nghĩa khi đất nước Việt Nam không giàu mạnh, nhân dân Việt Nam không thực sự được tự do, hạnh phúc, khi sự cao cả tốt đẹp không được tôn vinh đúng mực... Ngày 30 tháng 4 sẽ không còn giá trị thực tiễn khi quốc nạn tham nhũng không bị tiêu diệt, khi hiền tài nguyên khí quốc gia không được phát hiện và đặt đúng chỗ, cái giả lấn át cái thật, cái xấu xa hỉ hả lên ngôi...
Dân tộc mình - dân tộc Việt Nam - có lẽ vẫn cần, rất cần có thêm những ngày 30 tháng 4 nữa. Ðể giải phóng những năng lượng đang tiềm ẩn trong lòng đất nước. Ðể mở ra những tầm nhìn mới, những hành động mới cho Tổ quốc mang dáng Rồng vươn ra biển lớn bay lên...