Mùa xuân mơ ước đầu tiên

Đối với thế hệ sinh sau năm 1975 như chúng tôi, thì mùa xuân mỗi năm vẫn luôn là mùa khởi đầu của những dự định mới mẻ. Hồi nhỏ, khi nghe bài hát "Mùa xuân đầu tiên" của nhạc sĩ Văn Cao, tôi thường tự hỏi rằng, tại sao lại có mùa xuân đầu tiên, đầu tiên của cái gì, khi những lời nhạc cứ dập dìu, nhẹ nhàng, dường như bâng quơ, khe khẽ như một chồi non mới chuyển mình, đón những hạt mưa xuân đầu tiên, không cần phải vồn vã than van về sự chống chọi vừa qua với cái giá lạnh khắc nghiệt của mùa đông.
Tác giả (thứ ba, phải sang) cùng một số học sinh xuất sắc của Trường THPT Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn trong chương trình đào tạo "Thủ lĩnh truyền thông Trẻ".
Tác giả (thứ ba, phải sang) cùng một số học sinh xuất sắc của Trường THPT Chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn trong chương trình đào tạo "Thủ lĩnh truyền thông Trẻ".

Mùa vui nay đã về

Tôi du học ở Australia cũng vào tháng 4, khi ở Việt Nam vừa qua mùa xuân, còn ở xứ cận nam bán cầu thì ngược lại, những cơn mưa cuối mùa hè hơi se lạnh, chào đón mùa thu, và chuẩn bị cho một mùa lễ Phục sinh (Easter), để người ta lắng đọng lại, lắng nghe những điều tái sinh kỳ diệu của cuộc sống.

Trường tôi học ở Sydney tháng ấy cũng kỷ niệm ngày "Conception". Tôi lần đầu không hiểu ngụ ý của chữ này. Để viết một bài báo về lễ hội này, tôi đã phải lục lọi từ điển, tra cứu điển tích để dịch được chữ "conception" là "khai hoa" - khi bông hoa được thụ phấn, hay khi giọt mầm của sự sống đầu tiên mới hình thành từ một hợp tử. Hóa ra, trường tôi học kỷ niệm ngày ý tưởng thành lập trường được thai nghén!

Nhìn lại mình, mới phát hiện ra một điều thú vị, tôi cũng sinh vào cuối năm, sau Giáng sinh của năm 1976. Năm ấy, bố tôi đi công tác ngắn hạn ở Cộng hòa Dân chủ Đức về, và lấy tên của đất nước mà ông yêu mến để đặt cho tên tôi. Hẳn là, trong mùa xuân vui đầu tiên ấy, tạo hóa và mẹ cha đã trao một mầm sống vừa được khai hoa, cho mình có được hình hài sau này, cũng vào một ngày đầy sắc xuân.

Ai cũng có quyền tự hào về ngày sinh của mình. Sau này, hiểu được bài hát, nhìn hình ảnh của người nhạc sĩ già lần đầu sau bao nhiêu năm nhọc nhằn lại ngồi lại bên cây đàn, đọc được tư liệu về bối cảnh ra đời của tác phẩm, điều tự hào ấy với tôi, và có lẽ với bạn bè cùng tuổi, chắc chắn được nhân lên nhiều phần. Vì bài hát ấy được viết vào năm chúng tôi chào đời, mùa xuân đầu tiên của đất nước hòa bình, không còn chiến tranh, và vì lẽ đó, nó còn bao hàm cả sự biết ơn.

Những niềm vui long lanh

Nhưng bạn không thể chỉ sống với sự biết ơn. Khi ra nước ngoài, người ta không quan tâm bạn là ai và tự hào về điều gì, cái cần thể hiện là năng lực của bạn. Tôi đã luôn nhủ mình như vậy khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Và điều đó đúng một nửa.

Tôi đi học nghiên cứu sinh tiến sĩ khi đã ngoài 30 tuổi, cái tuổi không quá trẻ, dễ tiếp nhận những kiến thức mới như các bạn thanh niên. Hơn nữa, ngành tôi học cũng là một trong những ngành không dễ dàng, thuộc lĩnh vực Khoa học Nhân văn - vốn đòi hỏi phải có kiến thức nền sâu, rộng, nếu không muốn nói là phải uyên bác, và cập nhật với những gì thế giới đang nghiên cứu.

Những điều ấy đối với tôi hoàn toàn lạ lẫm, hành trang trước khi đi học hầu như không có gì đáng kể. Thời điểm lúc bấy giờ, ngành học nghiên cứu truyền thông và văn hóa ở trong nước còn hạn chế, và nếu có, thì cơ hội tiếp cận của tôi với giới học giả ít ỏi ấy cũng không nhiều.

Tất nhiên, tôi tự ti hơn bạn bè cùng học nghiên cứu sinh với mình, đến từ nhiều nước tiên tiến, kể cả các bạn ở các nước châu Á. Thời gian đầu, tôi khép mình và ít tham gia trong những cuộc thảo luận, seminar khoa học. Tôi luôn nghĩ kiến thức mình có còn hạn hẹp để có thể đối thoại thẳng thắn với các học giả, chuyên gia, và ngay cả các bạn đồng khóa.

Hệ quả, đến năm hai, tôi bị chậm tiến độ. Lần đó, tôi rụt rè đến gặp giáo sư hướng dẫn. Ông là một trong số ít giáo sư đầu ngành ở Australia, từng được Nữ hoàng Anh phong tước hiệu cao quý nhất dành cho giới hàn lâm. Đối với tôi, ông quá cao vời. Mặc dù cảm thấy may mắn là học trò của giáo sư, nhưng tôi luôn tự ti khi phải báo cáo bài tập, vì ông rất nghiêm khắc, chưa bao giờ tôi được nghe lời khen của ông.

Lần đó, trước sự ngạc nhiên của tôi, ông nói rành rọt: "Này cậu, cậu quên là người Việt Nam các cậu có thể làm được những việc phi thường khi gặp hoàn cảnh khó khăn? Cậu hẳn phải biết câu chuyện người nữ du kích trong chiến tranh, ừm, làm sao mà tôi nhớ tên được đây, người đã mang hai hòm đạn nặng gấp hơn hai lần trọng lượng cơ thể…".

Trong khi tôi còn mắt tròn mắt dẹt và cố nghĩ xem mình có nghe hiểu đúng ý của giáo sư không, thì ông nhìn tôi mỉm cười, một nụ cười nhân hậu và trí tuệ.

Tôi vẫn có thể hình dung về nụ cười ấy. Ngày tôi nộp bản cuối của luận án sau khi nhận góp ý phản biện. Cô giám đốc đào tạo của trường vừa tích vào bản hồ sơ thu nhận, vừa thủng thẳng: "À, đúng rồi, tôi muốn gửi lời của giáo sư của bạn. Ông đang đi công tác ở châu Âu, ông nói rằng, cậu viết tốt lắm!".

Lần đó, tôi nhảy chân sáo từ phòng đào tạo của trường cho tới khi ra trạm xe buýt, bắt chuyến xe trở về nhà, niềm vui như đang long lanh lan tỏa trong mình.

Giọt sưởi ấm đôi vai anh

Trong thời gian làm nghiên cứu sinh, tôi cũng năng viết báo để giữ nghề nghiệp của mình và kiếm thêm thu nhập. Năm đó, tôi đi theo tường thuật về Festival âm nhạc của các em thiếu nhi tiểu học vùng tây nam thành phố Sydney, theo lời mời của nhạc sĩ Nguyễn Lê Tuyên, người anh lớn thân thiết.

Nhạc sĩ Tuyên lúc bấy giờ là giáo viên âm nhạc của một trường tiểu học trên địa bàn, và anh được giao làm giám đốc âm nhạc cho toàn bộ liên hoan. Anh đã chọn bài dân ca "Lý con sáo" cho 300 em học sinh hát đồng ca, dưới sự đệm nhạc guitar của chính anh.

Bạn hình dung được không? Thật khó giữ được chiếc máy ảnh trên tay mình đứng im không lay động, để lấy được khung hình nét, khi nhìn thấy trên sân khấu kia, 300 khuôn miệng nhỏ xinh của các em bé đủ các sắc tộc, mầu da, mầu tóc, đang bi bô luyến láy rất ngọt "Ai đem con sáo sang sông, cho nó sổ lồng, cho nó sổ lồng bay xa".

Hôm ấy, tôi xin phép ban tổ chức cho phỏng vấn nhanh mấy bạn nhí. Tôi hỏi, con có biết bài dân ca này của nước nào không? Tất cả đồng thanh: Việt Nam! Thế con có hiểu lời bài hát nói gì không? Các bé ngập ngừng, lắc đầu, bối rối cười. Cô giáo phụ trách cũng cười. Tôi hỏi thêm: Vậy các con đoán xem đây là một bài hát vui hay buồn? Bài hát vui! (a happy song!) Các bé dõng dạc nói, ngay lập tức, tha thiết tới mức mà tôi cũng phải tin đây là một bài hát vui thật, chứ không phải kể về nỗi buồn của chia ly, chia xa!

Ngay sau đó, tôi đã tìm ra "tứ" để viết một bài về nhạc sĩ Lê Tuyên và festival mà anh tham gia. Tôi đã đặt một tiêu đề mà cả chúng tôi và tòa soạn đăng bài đều tâm đắc: "Giữa chúng ta là âm nhạc"!

Mùa bình thường

Tôi may mắn gặp lại mình trong ánh mắt long lanh của các bạn trẻ hôm nay trên giảng đường, khi trở về với cương vị người đứng lớp.

Tôi rất ít khi kể về những khó khăn mình gặp ở thời điểm lò dò đi tìm kiếm tri thức. Tôi cũng không nói quá nhiều về những điều các em cần phải tự hào. Mỗi thế hệ đều góp công đặt một dấu gạch nối cho thế hệ sau bước tiếp. Tôi tin, các bạn trẻ bây giờ hoàn toàn có khả năng đối thoại với bên ngoài, bước qua khỏi cái rụt rè của nhiều người trong thế hệ chúng tôi.

Hôm nay, vừa có một bạn sinh viên xuất sắc của lớp, mới tốt nghiệp hai năm trước, nhắn tin khoe: Thưa thầy, em cảm ơn rất nhiều, Thư giới thiệu của thầy đã giúp em giành được học bổng đi học thạc sĩ ở Đức.

Đó là bức thư tôi tự soạn để viết về em, thay vì cũng có vài lần khác, tôi chỉ cho chữ ký vào bức thư giới thiệu được biên theo mẫu.

Trong thư này, tôi không dành những tính từ như rất tự hào, vinh dự, hãnh diện, hay những lời khen có cánh dành cho bạn để thuyết phục người trao học bổng. Tôi chỉ nhấn mạnh một điều là, thông qua bức thư này tôi tự tin gửi gắm đến quý ông bà một người trẻ Việt Nam mà tôi biết, người có thể làm được những điều bình thường một cách đầy thi vị và đam mê, vì đó là cuộc sống mà bạn trẻ ấy muốn sống. Những điều bình thường ấy "xưa có về đâu".