"Bọn em nghe tiếng lựu đạn nổ", hai cô nói, "Đợi mãi không thấy anh Việt quay lại. Đã nghi nghi". Các cô lại gào lên "Anh Việt ơi! Anh Việt ơi! Anh tốt thế. Sao anh lại chết? Tại chúng em... tại chúng em". Nhìn những vật vã trong ân hận của hai cô gái làm tôi khó xử. Mãi sau tôi mới cất lời được "Việt còn bị kỷ luật". Thay vì những giọt nước mắt và những tiếng kêu gào đau đớn, cả hai cô gái há hốc mồm và yên lặng như chết rồi. Ác thay, chập tối hôm ấy đơn vị tôi được lệnh đi tiếp vào trong...
*
Gió lại làm dậy lên mùi thơm của nhãn chín. Ông Oa run run mồi đóm vào nõ điếu cày. Tiếp đó là tiếng rít kéo rõ dài. Khói thuốc lào nhả mù mịt khắp gian phòng. Bỗng chốc người đàn ông ngoài sáu mươi bé tỏng teo, tưởng như một chú bé con vừa bị ăn đòn mẹ. Tôi chuyển hướng "Ở trên tỉnh, người ta khen bác lắm. Thật không ngờ em và bác lại nhận được nhau". Ông Oa ngậm ngùi "Chuyện đời dài thật đấy và ngắn thật đấy. Tối ấy xấu hổ quá, lại tranh thủ lúc dân làng ùa đi bắt trộm, tôi bỏ làng lên ngược. Thằng Việt mới lên tám. Vậy chú với cháu cùng tuổi à?". Tôi gật đầu xác nhận và tiếp "Chuyện thằng Việt coi như bác và em đã kỹ rồi. Bác kể về bác đi. Thì ít ra hôm nào về làng em còn có chuyện nói lại với bác gái". Ông Oa mặt quay đi "Bà ấy chắc hận tôi lắm. Hồi làm bạn với mẹ thằng Việt, tôi mười bảy tuổi. Còn bà ấy đã... hai mươi sáu. Chuyện quê ấy mà chú".
Khi tôi lớn lên, có hiểu biết đôi chút. Bà cho tôi biết "Ông Oa, xét trong họ là anh tôi". Hồi ông Oa đi "lính Giơ-ne", gia đình bắt ông lấy vợ. Chẳng hiểu là cũng thích hay không dám trái ý gia đình mà ông Oa đồng ý. Người đàn bà là vợ ông, tuy tuổi đã cưng cứng nhưng được cái tính cái nết. Họ có với nhau thằng Việt. Bà tôi bảo: "Tưởng đi lính Cụ Hồ thằng Oa sáng ra, chứ ai ngờ đổ đốn. Hết hạn về làng, được tín nhiệm làm anh dân quân. Chẳng dè đâm ra phải lòng gái. Bà tôi ậm ừ không nói nữa. Tôi cũng chỉ biết đến thế.
"Chú giờ là ông nhà báo. Chữ nghĩa chú nhiều. Chữ của chú cả thiên hạ xem. Chú cho tôi biết thế nào là tình yêu? Thế nào là số phận?". Tôi nhìn ông Oa ngờ vực. Vẻ đáo để bất chợt của ông khiến tôi phải nghĩ lại. Ông Oa tiếp "Âu cũng là cái số. Bỏ làng đi vì xấu hổ. Không dám về làng cũng vì trót dại. Ngần bấy năm... Chỉ trách tôi ngày ấy cả nghĩ mà đâm quẩn....".
*
Tôi đứng đẫn người bất lực nhìn khoảng đồi rộng trơ trọi đang nguội nắng. Hai chân tôi cứng như đeo chì, cố lắm mà không tài nào nhúc nhích được. Chiều như trêu ngươi, mầu đen của bóng chiều hôm đang đổ xuống khiến tôi thêm bấn loạn. Lo lắng hết sức vậy mà tôi không tài nào biết cách xử sự ra sao. Bên hốc đá nhám khói đen nhoét trong ráng chiều, thằng Việt giống như một mỏm cụt của cái thân cây bị bom Mỹ phạt ngang. Nó ngồi đấy, đầu gục xuống, hai tay đặt thõng trên mặt đất. Cả đến nhịp thở của nó cũng như ngừng lại. Nó hết khò khè phát ra những tiếng rên đau đớn. Bất chợt thằng Việt ngẩng phắt đầu lên giống như nó vừa cúi xuống ngẫm ngợi xong điều gì đó. Thằng Việt mở to đôi mắt nhìn bảng lảng ra mãi chân đồi. Tôi hoảng hồn cũng ngoái đầu nhìn theo hướng nhìn của nó. Chỗ vạt đồi kia bỗng bừng sáng khi một cơn gió vừa lùa đám mây treo lờ lững. Vạt đồi sáng vàng lạ lùng. Giọng thằng Việt trong veo "Ong bay. Ong đang bay". Tôi cố gắng nhìn theo, chỗ vạt đồi vừa bừng sáng có mấy cánh ong rừng đang rè rè đập cánh tìm chỗ đậu. Thật sửng sốt khi giữa vạt đồi chết chóc ấy lại nhởn nhơ những cánh ong rừng bay náo nhiệt.
Tôi quay phắt người lại nhìn kỹ vào mắt thằng Việt, giờ đôi mắt nó long lanh vừa quen quen vừa là lạ. Trong ánh nhìn quen quen ấy tôi nhận ra đôi mắt của thầy nó lúc bị người ta gí cây đèn bão vào sát tận mặt. Thầy thằng Việt ngẩng đầu lên lồ lộ ánh nhìn hân hoan lạ. Dưới chiếc gầm bàn mà trước đó người đàn ông ngồi ủ dột như đang cố che mình là đôi mắt nhìn ra xa. Cái nhìn của thầy thằng Việt không có gì là sợ hãi cả. Lẩn khuất sau tán lá nhãn lòe xòe tôi còn kịp trông thấy đôi mắt của thầy thằng Việt đang tỏ rõ sự hài lòng.
Tôi còn láng máng nhớ bà tôi kể rằng: Người con gái mà thầy thằng Việt "phải lòng" kia có gì đấy rất đáng thương. Mẹ mất, người con gái sống một mình ngoài bìa làng. "Ấy là làng còn thương, còn cưu mang đấy". Bà tôi nói vậy. Sao làng còn thương còn cưu mang nhỉ? Chính bà tôi đã kể người con gái kia là đứa con hoang của địa chủ Hào. Làng tôi hồi chưa cải cách chỉ có địa chủ Hào là sống dư dả nhất. Một mình địa chủ Hào sở hữu hàng chục mẫu ruộng mà lại toàn những chân ruộng tốt nhất làng. Địa chủ Hào cưỡng hiếp người đàn bà làm công cho lão. Thế nên mới sinh ra người con gái đẹp nhưng lão lại không thèm nhận. Năm 1955, địa chủ Hào chạy xuống Hải Phòng theo tàu há mồm của Pháp di cư vào Nam. Người con gái kia cùng mẹ được làng cho dựng nhà ngoài bìa làng. "Không nhẽ đuổi mẹ con họ đi". Bà tôi vừa nhai trầu vừa nói làm rớt xuống vạt áo vài giọt nước. Bà quệt môi rồi nói tiếp "Thực ra thì mẹ con nhà nấy cũng tồi tội". Cái "tồi tội" mà bà tôi nhắc tới là hai mẹ con nhà nấy chỉ vì "dính dáng" đến địa chủ Hào mà "xã" không chia cho ruộng. Sau cải cách làng tôi nhà nào cũng được chia ruộng cả, chỉ trừ mỗi mẹ con nhà nấy. Năm ngoái mẹ cô gái mất vì bệnh. Bà ấy mất rất nhanh, nhanh đến nỗi mà bà tôi phải nói "Không ruộng, không ai thân. Mất nhanh lại đỡ nhục".
Thầy thằng Việt từ hồi về làng vì vốn đã là "lính Giơ-ne" nên được xã giao làm chân dân quân xã. Những năm Mỹ đánh phá, dân quân xã có thêm nhiệm vụ là ngày đêm trông coi việc an ninh của làng. Thầy thằng Việt chắc những đêm đi "tuần" trông coi an ninh cho làng đã "thậm thụp" với người con gái sống một mình kia. "Tay ấy hay qua lại giúp cô gái sửa sang mái nhà bị dột". Bà tôi chép miệng nói bâng quơ. Kể cũng "tội" thật. Nhà neo người, gái tơ hơ hớ chuyện hay bị đám dân quân mượn cớ vòng vèo trước nhà chọc ghẹo cũng dễ hiểu. Thầy thằng Việt ban đầu chỉ qua đấy giúp sửa mái rạ lâu ngày không được dọi lại. Rồi tiếp đó là canh chừng đám dân quân kiếm cớ "vòng vèo". Chẳng biết từ đâu loan cái chuyện "hủ hóa". Thế mới có bữa cả làng tôi ra sân đình họp kiểm thảo.
Thằng Việt vẫn mở to đôi mắt. Nét mặt hân hoan như bắt được của. Rồi nó ngước nhìn tôi nói bằng cái giọng thều thào "Mày đừng nói với thầy tao là......". Thằng Việt khó khăn cố ghìm cơn đau. Miệng nó mím chặt lại nghĩ ngợi. "Mày có gặp lại thầy tao thì đừng nói.....". Nó lại mím môi khó nhọc. Hình như thằng Việt đang tìm câu gì đó để nhắn gửi với tôi mà nó chưa nghĩ ra. Ngoài kia vạt đồi bừng sáng như ngưng lại. Lạ vô cùng, giữa một vùng khét cháy mùi bom lại bừng sáng một vạt đồi với nhởn nhơ mấy cánh ong rừng đang rè rè đập cánh. "Ong bay là tới mùa nhãn chín". Thằng Việt nói rành rẽ. Có lẽ đấy là câu nói rành rẽ nhất của nó từ lúc tôi tìm thấy nó toàn thân dính bết máu. "Mùa nhãn chín rồi đấy. Mày có gặp lại thầy tao thì đừng nói tao... đừng nói tao... tao chết hèn... chết hèn như thế này nhé".
Tôi đứng như trời trồng. "Tội" thằng Việt đáng trách thật. Mà sao nó giống tính thầy nó đến thế?
*
Không ai nói nữa. Phần tôi cũng thấy kho khó. Nhưng hiện tại là một ông Oa nổi tiếng vùng này giỏi làm kinh tế gia đình là điều chấp nhận được. Và một bài báo của tôi viết về một tấm gương điển hình làm kinh tế trang trại đang hình thành trong đầu. Ngoài kia, vườn đồi nhà ông Oa bạt ngàn cây nhãn. Những cây nhãn đang vào mùa cho quả trông không thể chê được. Tôi lựa lời "Xong vụ nhãn bác nên về thăm quê?". Ông Oa lại ngửa cổ nhả đám khói thuốc lào nữa, nói bùi ngùi "Cũng may là cái đêm tôi chạy đến nhà cô ấy. Chạy đến trước cửa nhà rồi mà đứng ngẩn ra chẳng hiểu là mình đến đó để làm gì. Cô ấy nhìn tôi ngơ ngác vì cũng không hiểu chuyện gì xảy ra. Thực tình lúc đó giữa tôi và cô ấy đã có ý gì đâu... Cô ấy theo tôi cũng là cái liều... Chẳng qua cô ấy cũng có còn ai để mà dựa... Bỏ làng đi, tôi và cô ấy...". Ông Oa ngập ngừng ám chỉ người con gái mà ông đã trót giúp đỡ, đã bị làng mang ra kiểm thảo ngoài sân đình trong cái tối như định mệnh năm nào. Cũng từ tối hôm đó người đàn bà đã làm ông "khổ" ấy trở thành vợ của ông Oa. Bà ấy vừa mượn cớ xuống dưới nhà bếp làm cơm để hai anh em chúng tôi ngồi tâm sự được tự nhiên. "Cũng may là cô ấy có đem theo ít hạt nhãn". Ông Oa nháy mắt cười sảng khoái. "Thế mới có đồi nhãn như bây giờ".
Chia tay ông Oa, trong lòng tôi đan xen các loại tình cảm. Làng quê Muội Sảng của tôi, của thằng Việt, của ông Oa và của mọi người đang râm ran mùa nhãn chín. Đồi nhãn của ông Oa rối rít cánh ong bay và cũng đang dậy lên thứ mùi thơm sâu trong họng như vừa ăn kẹo. Một chút ấm êm tràn ngập giữa tôi và người anh họ đã luống tuổi. "Về chứ. Về để làng còn tha thứ cho tôi. Về làng để tôi còn thắp cho cháu nó nén hương". Ông Oa nắm chặt tay tôi lắc lắc. Ngoài kia hương nhãn chín ùa khắp đồi.
Tôi vẫn nhớ bà tôi hồi còn sống thường nói "Cây nhãn chính là làng mình đấy con ạ".