Một bài toán kinh tế đầy nghịch lý

Theo các chuyên gia, đất đai Đồng bằng sông Cửu Long đang suy kiệt nghiêm trọng. Cường độ canh tác cao, lạm dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật khiến đất mất dần độ màu mỡ, hệ vi sinh vật suy giảm. Nếu không sớm phục hồi, nguy cơ suy thoái đất kéo dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của nông dân, an ninh lương thực quốc gia và sự phát triển bền vững của toàn vùng.
Sức khỏe đất đai đồng bằng sông Cửu Long đang cần “cấp cứu”, không chỉ là “cảm mạo” thông thường. Ảnh: Thanh Dũng
Sức khỏe đất đai đồng bằng sông Cửu Long đang cần “cấp cứu”, không chỉ là “cảm mạo” thông thường. Ảnh: Thanh Dũng

Đất suy thoái sau nhiều thập kỷ thâm canh lúa

Theo số liệu của Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, năng suất lúa ở một số vùng của đồng bằng đã giảm từ 10-15% trong những năm gần đây. Độ phì nhiêu của đất cũng giảm đáng kể, khiến cho việc canh tác trở nên khó khăn hơn.

Sự suy thoái đất đai ở châu thổ Cửu Long có nhiều nguyên nhân, trong đó, thâm canh ba vụ lúa liên tục là nguyên nhân chính. Việc khai thác quá mức đất đai, không cho đất có thời gian nghỉ ngơi, đã khiến đất đai cạn kiệt dinh dưỡng, bạc màu. Cùng đó, hệ thống đê bao khép kín ngăn lũ, cũng ngăn luôn phù sa bồi đắp càng làm giảm độ phì nhiêu của đất. Hậu quả của sự suy thoái đất đai là vô cùng nghiêm trọng. Đất đai bạc màu, cạn kiệt dinh dưỡng dẫn đến tăng chi phí sản xuất (phân bón, thuốc trừ sâu) để duy trì năng suất, nhưng hiệu quả kinh tế lại không cao. Ô nhiễm môi trường do lạm dụng hóa chất cũng ảnh hưởng đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.

Theo PGS, TS Trần Kim Tính (Trường đại học Cần Thơ), “việc thâm canh ba vụ lúa trong đê bao khép kín đã làm thay đổi nghiêm trọng cấu trúc đất, khiến đất trở nên bí chặt, khó thoát nước và hình thành tầng đế cày, gây cản trở sự phát triển của rễ cây”. Ông cũng nhấn mạnh rằng “việc sử dụng phân bón hóa học không cân đối đã làm gia tăng độ chua của đất”.

Đồng quan điểm, GS, TS Nguyễn Bảo Vệ (nguyên Trưởng khoa Nông nghiệp Trường đại học Cần Thơ) cũng cảnh báo về tình trạng “cạn kiệt các chất dinh dưỡng trong đất, đặc biệt là các nguyên tố vi lượng, do thâm canh lúa ba vụ liên tục”. Ông cho rằng “đất đai trở nên bạc màu, giảm độ phì nhiêu, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa”.

Còn TS Đỗ Đức Dũng, chuyên gia về đất đai và môi trường, cũng đưa ra nhận định về “ảnh hưởng của đê bao khép kín, mặc dù giúp kiểm soát lũ, nhưng lại ngăn chặn việc bồi đắp phù sa tự nhiên, làm giảm độ phì nhiêu của đất”. Ông nhấn mạnh “việc thiếu sự trao đổi nước tự nhiên cũng làm gia tăng tình trạng ô nhiễm đất”.

Những nhìn nhận, đánh giá này của các chuyên gia đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc thay đổi mô hình canh tác, hướng tới các biện pháp bền vững hơn để bảo vệ đất đai và bảo đảm an ninh lương thực cho châu thổ Cửu Long.

Bài toán kinh tế của thâm canh ba vụ lúa

Thâm canh ba vụ lúa tưởng chừng là mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng mô hình này đang đặt ra một bài toán kinh tế đầy nghịch lý. Chi phí đầu tư cho phân bón, thuốc trừ sâu, nhân công ngày càng tăng cao, trong khi năng suất lúa lại giảm dần. Điều này dẫn đến lợi nhuận của người nông dân ngày càng giảm sút.

Thực tế cho thấy, nhiều hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng “càng làm càng lỗ”. Họ phải vay nợ để đầu tư cho sản xuất, nhưng thu nhập lại không đủ để trả nợ. Điều này khiến cho cuộc sống của họ ngày càng khó khăn hơn. Đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi tư duy sản xuất, tìm kiếm những mô hình sản xuất bền vững hơn.

Nghiên cứu năm 2021 của tác giả Trần Bá Linh và cộng sự thuộc Trường đại học Cần Thơ tại Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang) so sánh hiệu quả tài chính của canh tác lúa ba vụ và canh tác hai vụ đã cho thấy: chi phí phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong vùng canh tác lúa ba vụ (trong đê) cao gấp 1,48 lần tại Tri Tôn và 1,15 lần tại Tịnh Biên so với vùng canh tác lúa hai vụ (ngoài đê). Tổng lợi nhuận bình quân một vụ lúa của mô hình canh tác lúa hai vụ cao hơn mô hình canh tác lúa ba vụ tại Tri Tôn là 3.410.822 đồng/ha/vụ, và Tịnh Biên là 2.867.819 đồng/ha/vụ.

Thêm vào đó, việc thâm canh lúa liên tục cũng tạo ra sự phụ thuộc lớn vào phân bón hóa học và thuốc trừ sâu, dẫn đến tăng chi phí sản xuất và rủi ro về sức khỏe cho người nông dân và người tiêu dùng. Sự phụ thuộc này cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế, nơi mà người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sản phẩm nông nghiệp sạch và bền vững.

Lời giải thuận thiên

Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu và Quy hoạch tích hợp đồng bằng sông Cửu Long đã đề ra chủ trương chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, thuận thiên.

Quyết định 324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02/3/2020 về việc phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã đề ra mục tiêu điều chỉnh diện tích và sản lượng lúa gạo vùng đồng bằng này.

Cụ thể, Quyết định 324/QĐ-TTg đề ra mục tiêu rằng đến năm 2030, diện tích canh tác lúa toàn vùng còn 1,6 triệu ha (giảm khoảng 300 nghìn ha, chuyển sang canh tác trái cây và nuôi trồng thủy sản); diện tích gieo trồng lúa còn 3,1 triệu ha (giảm 1 triệu ha do giảm diện tích canh tác và giảm vụ); sản lượng lúa dự kiến còn 17,3 triệu tấn (giảm 6,3 triệu tấn). Đây là lời giải đúng đắn cho bài toán hồi sinh đất đai đồng bằng sông Cửu Long. Thế nhưng tới nay, mục tiêu này vẫn chưa đạt được. Tổng diện tích gieo trồng lúa ba vụ/năm ở vùng châu thổ này năm 2024 ước khoảng 3,8 triệu ha, sản lượng lúa hơn 24 triệu tấn.

Để cứu đất đai châu thổ Cửu Long và duy trì an ninh lương thực về lâu dài, cần nghiêm túc thực hiện các chính sách đã có, với các giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất là giảm thâm canh: Giảm số vụ lúa trong năm, cho đất có thời gian nghỉ ngơi, phục hồi. Luân canh cây trồng, chuyển đổi sang các mô hình canh tác phù hợp hơn. Việc giảm số vụ lúa không chỉ giúp đất đai phục hồi mà còn giảm áp lực lên nguồn nước và giảm lượng phát thải khí nhà kính từ hoạt động nông nghiệp. Hiện nay có một nghịch lý là chúng ta vẫn thực hiện phương pháp canh tác giảm phát thải và duy trì ba vụ lúa trong đê bao khép kín để được nhiều tín chỉ carbon. Trong khi, chỉ cần giảm hẳn một vụ lúa thì đã tự nhiên giảm được một lượng lớn phát thải.

Thứ hai, cho nước lũ vào lại đồng ruộng: Điều chỉnh hệ thống đê bao, cho phép nước lũ mang phù sa vào đồng ruộng. Tận dụng lợi ích của lũ để rửa trôi độc chất, bổ sung dinh dưỡng cho đất.

Thứ ba, xây dựng các mô hình nông nghiệp sinh thái: Việc sử dụng phân bón hữu cơ không chỉ cải thiện chất lượng đất mà còn giảm ô nhiễm môi trường và tạo ra sản phẩm nông nghiệp sạch.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần xem xét lại khái niệm an ninh lương thực. An ninh lương thực trong một thời gian dài tập trung vào tối đa hóa sản lượng lúa gạo trong đó xuất khẩu hơn 50%, nhưng lại đánh đổi bằng sự suy thoái đất đai. Bởi vậy, cần hướng đến một khái niệm an ninh lương thực bền vững hơn, vẫn bảo đảm nguồn cung lương thực ổn định, nhưng không gây hại cho môi trường.

Trên thực tế nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững đã được triển khai thành công ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thí dụ, mô hình lúa-tôm, mô hình trồng cây ăn trái kết hợp du lịch sinh thái, mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Những mô hình này không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường, hồi sinh đất đai. Để đạt được sự chuyển đổi này, cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng, sự hỗ trợ từ các nhà khoa học, và sự đầu tư từ các doanh nghiệp. Việc xây dựng các chuỗi giá trị nông sản bền vững, kết nối người nông dân với thị trường, cũng là một yếu tố quan trọng.

Thiết nghĩ, hồi sinh đất đai đồng bằng sông Cửu Long là một nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Chính phủ đã ban hành một khung chính sách mới rất tốt về phát triển nông nghiệp bền vững cho vùng châu thổ này. Tuy nhiên, việc thực hiện đến nay vẫn chưa được như mong muốn. Đã đến lúc Chính phủ cần rà soát lại việc thực hiện những chính sách đã ban hành này. Cùng đó, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích người dân chuyển đổi sang các mô hình sản xuất bền vững. Doanh nghiệp cần đầu tư vào các công nghệ sản xuất nông nghiệp sạch, thân thiện với môi trường. Khi bài toán kinh tế được đặt trong những phân tích chiến lược với tầm nhìn dài hạn, những nghịch lý sẽ được hóa giải, mang tới sự phát triển bền vững.