Miền sương giăng

Tôi mở cửa, vứt cái ba lô to kềnh xuống sàn nhà rồi nằm vật ra giường. Tưởng sẽ ngủ được một giấc nhưng không thể chợp mắt. Lại nhớ cái tin nhắn vừa đến lúc nửa đêm của Nguyên: “Cuộc sống của Thành giờ chỉ tính bằng ngày, mày biết không?” làm tôi sững sờ. Biết làm sao được, ba năm ở trong bản làng này là ba năm tôi rũ bỏ tất cả những gì thuộc về mình trước đó. Tôi chạy trốn ngay cả với bản thân mình bằng cách cắm cúi vào đọc và viết. Tôi hạn chế cả dùng điện thoại nên mỗi lần mở mạng kết nối, tin tức cứ kêu lên những hồi báo dài không dứt. Một trong những tin nhắn chậm chạp đến tôi đó là của Nguyên. Nguyên đã gửi tin nhắn này từ mấy tuần trước làm tôi chới với. Lúc này đêm đã khuya. Tôi nhìn ra ngoài trời đẫm trăng, rùng mình. Sương dưới vực đã đùn lên ngùn ngụt che chắn hết mọi lối không còn nhìn thấy mặt người nữa. Tôi bất lực bó gối ngồi chờ trời sáng. Hóa ra, trong lòng tôi lại đang dối mình, những phai nhạt về anh chỉ nhạt phai khi cả hai chúng tôi đều có cuộc sống t

Miền sương giăng

Tôi chỉ kịp rửa mặt qua quýt rồi chạy ngay đến nhà anh. Căn phòng nhỏ nằm tít trên tầng bốn của một căn nhà cũ. Thành chẳng bao giờ tự xem mình là một họa sĩ. Anh nói với tôi chỉ là anh thích vẽ những khi hứng khởi. Anh không xem nó là nghề. Trước đây anh đã từng là một thạc sĩ chuyên ngành triết học ở Đức, xuất thân từ một gia đình danh giá có bố là một nhà ngoại giao. Không hiểu sao một ngày anh về nước. Anh thường ôm má cưng nựng tôi như đứa trẻ con khi tôi ngồi làm mẫu cho anh vẽ bằng một thứ âm thanh như reo: “Cái thú vị nhất trong cuộc đời anh là Chúa đã cho anh gặp em”.
 
 Tôi đã sống những tháng ngày đẹp đẽ và thi vị như thế cho đến một ngày tôi nhận được bức thư của một người phụ nữ xa lạ (người đó tự xưng là vợ anh) người đã nói rành mạch những gì thân thuộc về anh mà tôi không cần kiểm chứng nữa. Tôi lặng lẽ rời xa anh theo cách của mình. Bởi lúc đó, tôi nghĩ, nếu nói ra cả hai chúng tôi sẽ đều cùng khó xử. Kỳ lạ là Thành không hề đuổi theo tôi, cũng không hề giải thích lấy một lời. Sự tự ái khiến tôi căm hận cả cái không khí ồn ã tôi đang hít thở.
 
 Tôi đã ra đi, bỏ lại sau lưng cả thành phố rực rỡ ánh đèn và những buổi chiều mù mịt khói vì tắc đường, về với bản. Ước muốn về bản đã bao lần vì Thành mà không thực hiện được giờ lại vì anh mà trở thành động lực cho chuyến đi dài ngày của tôi. Từ dạo đó chúng tôi không gọi điện cho nhau. Trang facebook tôi cũng chặn luôn nên mọi thứ về anh tôi chỉ nghe qua bạn bè nhưng những thông tin về anh chỉ làm lòng tôi thêm vết cứa: “Thành dạo này có một em xinh lắm”, “Thành dạo này thế này, thế kia…”, chỉ từng đó thôi đã khiến cho tôi tin chắc rằng mối quan hệ của chúng tôi đã đến hồi kết thúc. Khi một mối tình bắt đầu đẹp đẽ đến nhường nào thì kết thúc nỗi đau khổ cũng lớn lao đến nhường ấy.
 
 Tôi đăng ký đi dạy học ở miền núi…
 
 Chiếc xe khách lên Kỳ Sơn thả tôi ở ngay một ngã rẽ. Gã tài xế vừa kéo chiếc va li to kềnh xuống xe ngại ngùng: “Cô giáo vào bản tầm này nếu không có người đón thì ngủ lại đây đã, mai hẵng đi. Đường vào bản khó đi lắm!”, “Bao xa anh?”. “Hai mươi cây số thôi, nhưng đoạn đường này thì không đo bằng thời gian được”. Gã tài xế chỉ nói được thế trước khi khuất sau đám bụi đỏ mịt mù.
 
 - Cô giáo! Không chê anh nghèo thì lên xe?
 
 Chử đón tôi bằng chiếc xe máy cà tàng đầy bùn đất. Tôi ái ngại nhìn chiếc xe được quấn xích chung quanh lốp như bánh xe tăng. Biết làm sao được, khi đã lên đến đây thì chỉ có thể tiến chứ không lùi.
 
 Chiếc xe như con ngựa nhảy cà tưng. Vượt qua con dốc một đoạn thôi đã làm tôi sởn người. Những “cỗ chiến xa” tự chế của người dân nơi đây phải về số một, rú ga hết cỡ, lốp xe cày bắn tung đất lên như một cỗ máy xới đất.
 
 Sự thật giờ đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng của tôi. Đi hết đoạn dốc đầu tiên là con đường chỉ rộng chừng một mét. Sương mù dày đặc, sương đọng rơi xuống mặt đường trơn trượt. Nhiều đoạn đường do bị nước mưa xối mòn nên giữa lòng đường bị cày sâu như một con suối. Đến nơi thì cả người đều lấm lem bùn đất.
 
 Đêm đó, tôi ngồi bó gối, rồi thiếp đi mất một lúc cho đến khi giật mình thức giấc, mới biết trời đã sáng. Có tiếng lục cục ngoài cửa phòng. Tôi mở cửa, đám học trò đang co ro đứng ngoài cửa ngơ ngác cười. Chúng đón chào tôi bằng tiếng nói rộn ràng chìm trong sương trắng. Lời Nguyên dặn trước khi vào bản “mua cho trẻ con ít kẹo” trở nên linh nghiệm lạ lùng. Buổi phát kẹo được xem là lời chào hỏi thân thiện nhất.
 
 Chỉ có Thy không lại cùng đám bạn đó. Vẫn ngồi dưới bậc cầu thang lặng lẽ. Đôi mắt mở to và buồn nhìn vào khoảng không vô định, bàn tay nhỏ bé sau gấu áo khiến tôi chần chừ lại gần. Chử đứng sau lưng tôi, nói: “Nó bị mù”.
 
 Đó là lời đầu tiên tôi biết về Thy.
 
 Cho đến khi cầm tay Thy, chỉ từng nét chữ Braille đầu tiên trong đời tôi mới nhận ra giá trị của cuộc sống mà mình hướng đến. Nhìn ngón tay non nớt run rẩy của Thy khi chạm vào phím chữ bao cảm xúc của tôi như vỡ òa. Tôi nhìn Thy, khoảng trống đen sâu thẳm im lặng đó làm cho tôi thấy nhói buốt. Đứa trẻ tật nguyền kia vẫn đang mang trong mình ước mơ được chạm tay vào cuộc sống để xem ánh sáng nó thế nào, màu sắc nó ra sao, vậy mà tôi lại có lúc trốn chạy khỏi nó.
 
 Tôi bảo Chử để Thy ở lại cùng tôi trong khu ký túc xá. Thi thoảng ngày nghỉ, cuối tuần tôi chở Thy về nhà. Đến nhà Thy, phải băng qua cung đường quanh co dưới những rừng mận già, với những chùm địa y bám chung quanh từ gốc lên ngọn. Nhà em cũng như những nếp nhà người H’Mông khác nằm san sát nhau được lợp bằng gỗ samu.
 
 Đêm nhận được tin nhắn của Nguyên tôi đã khóc. Tôi đã có ba năm tươi đẹp để yêu anh thì cũng từng đó thời gian dành cho những ngày kết thúc. Vậy mà, khi con số đó gần chạm đến đích, Thành lại buộc tôi trở về trạng thái ban đầu. Như mới hôm qua thôi chúng tôi vừa cãi nhau và câu kết thúc không thể nào đau đớn hơn với một đứa giàu lòng tự trọng và bướng bỉnh: “Cô nhạt nhẽo lắm!”.
 
 Thy hình như đã cảm nhận được điều gì đó từ tôi nhưng không thể nói ra. Tôi bảo phải về phố ít hôm, khiến Thy lặng đi một lúc rồi mỉm cười.
 
 Tôi dừng xe trước cổng nhà trồng đầy những đám cây từ bi lá lấp lánh, nhìn Thy đang đi về phía cửa. Chử vẫn không nhìn tôi. Thường thì anh đã chuẩn bị một ít gạo sẵn cho cô trò tôi từ trước trong cái túi để trước thềm nhà. Chỉ Thy lặng lẽ mân mê bàn chân đứa em còn ẵm ngửa trên tay mẹ một lúc rồi lại đi ra cửa. Em ngồi nơi bậc cầu thang bần thần. Như để xua tan sự ủy mị trong tôi Thy hít sâu vào lồng ngực rồi cười:
 
 - Cô giáo! Cô có ngửi thấy mùi thơm hoa mận?
 
 Tôi nhìn lên mái nhà lợp bằng gỗ samu đã cũ. Cây mận cao vút bắt đầu lác đác bông trắng lấp lánh.
 
 - Thơm quá…
 
 - Đến bữa cô lên là rộ mùa đẹp nhất, lúc đó mình còn nghe cả mùi mật ngọt ngào.
 
 Tôi nắm tay Thy. Chử đã chờ xe sẵn nhưng vẫn không nói với tôi lời nào. Anh ta đinh ninh rằng, tôi rồi sẽ như những giáo viên dưới xuôi lên đây từ trước, cứ gieo vào đầu con bé những hy vọng rồi bắt nó phải chờ đợi vì tuyệt vọng, nên giờ khi tôi báo với anh, Thy sẽ ở nhà ít hôm là anh đã hình dung ra ngay cái cảnh những cô giáo trước đây về xuôi và không trở lại.
 
 - Lần này cô về luôn đúng không?
 
 - Chỉ ít ngày.
 
 - Ít ngày là bao giờ?
 
 - Một tuần.
 
 - Một tuần? Đáng ra tôi không nên để nó đến ở cùng cô. Cái đứa trẻ tội nghiệp đó ông Trời đã bắt tội đời nó phải ngồi nơi xó cửa rồi thì vĩnh viễn phải ngồi nơi xó cửa.
 
 - Anh… anh đừng nói thế - Tôi hốt hoảng - Tôi hứa với anh là tôi sẽ trở lại.
 
 Tôi lấy hết can đảm cầm tay Chử, nhìn sâu vào đôi mắt đã đầy vết chân chim khắc khổ lẫn buồn bực trên khuôn mặt cố để anh tin. Trước đây, Chử là một trong những đoàn viên thanh niên của bản được đi học tập để về xây dựng quê hương, nên tiên phong xóa bỏ những hủ tục lạc hậu của bản, nhưng rồi không thể. Việc vợ chồng anh đẻ ra cái Thy bị mù như một bát nước hất vào ngọn lửa đổi mới đang hừng hực trong anh. Người ta không tin anh mà tin thầy cúng. Thầy bảo nó là sao chổi, bất kể ai ở gần đều có thể bị nguy hiểm, vì thế cả họ tộc đã yêu cầu Chử phải vứt bỏ đứa bé. Nhưng anh kiên quyết không từ bỏ nó. Anh lặng lẽ dựng một cái lán ở rìa bản, nuôi Thy cho đến hôm nay.
 
 Việc tôi về phố, với anh, như là một niềm tuyệt vọng không thể nào níu giữ.
 
 ★★★
 
 Thành không có nhà. Tôi nhắn tin hẹn gặp anh nơi quán cũ và ngồi sẵn ở đó. Lần này anh không tránh mặt tôi. Khi anh chọn cách đối mặt thì tôi lại bối rối. Từ khi nghe tin anh từ Nguyên, tôi như có bão lòng. Tại sao tôi có thể hồ đồ vướng vào trò lừa bịp của anh nhanh đến thế. Anh chọn cách đó để lìa xa tôi, để không muốn giam cầm tuổi thanh xuân của tôi mà chọn một cách đểu cáng và trơ trẽn nhất - anh đã có gia đình. Điều đó hạ gục tôi một cách nhanh chóng. Và giờ đến tôi, khi sắp đối mặt với anh lại phải diễn nốt cùng anh vở kịch này.
 
 Thành đứng ở cửa, vẫn cái dáng người kênh kiệu và bất cần. Anh cởi chiếc áo măng-tô dài đặt vào thành ghế, gỡ cái khăn len quấn quanh cổ rồi vội vàng quấn quanh cổ tôi như hồi yêu nhau:
 
 - Em không giữ ấm cổ gì cả.
 
 - Em không lạnh.
 
 Tôi bắt đầu run lên, hơi ấm của anh từ chiếc khăn quấn quýt cổ tôi làm tôi rùng mình. Thành gọi một ly capuchino nóng cho tôi và một ly đen không đường cho anh như ngày xưa, rồi nháy mắt cười.
 
 - À, em có còn thích hương vị của nó?
 
 - Em sao cũng được.
 
 - Em vẫn nhạt nhẽo thế.
 
 - Ừ! Thế anh mới bỏ em mà, đúng không?
 
 Thành cười không trả lời câu hỏi của tôi, dẫu tôi biết anh đang cố để làm ra một cuộc nói chuyện tự nhiên nhất có thể. Vở kịch này thực ra đã hạ màn từ lâu, vậy mà không hiểu sao cả hai vẫn muốn tiếp tục. Tôi vì Thành mà dối mình, cốt để anh tin cuộc sống của tôi đang đẹp đẽ từ ngày không có anh. Thành cũng vì tôi mà giấu đi những cơn đau đang gặm nhấm cơ thể. Đến một lúc nào đó, cả hai phải dừng lại. Nhưng như thế cả tôi và Thành sẽ đau khổ.
 
 - Tối nay em ở lại nhé? - Thành đề nghị.
 
 Tôi lặng lẽ gật đầu. Đêm đó, như lần đầu hẹn hò cùng nhau, chúng tôi cùng ăn cơm, cùng đi xem phim rồi cùng về lại căn gác trọ đầy khung tranh và toan vẽ, cùng thu chân vào chăn và tựa đầu vào vai nhau cho đến sáng.
 
 Thành đã ra đi như thế, nhẹ nhõm trên vai tôi như một lời từ biệt cuối cùng.
 
 ★★★
 
 Tôi về lại bản, nơi miền sương giăng phủ. Chử đón tôi từ đầu đường:
 
 - Bệnh viện gọi, đã có người hiến giác mạc cho con bé… mong cô giúp tôi.
 
 Chử nói rồi vội vàng dúi bức thư vào tay tôi. Tôi giở thư. Thành viết làm tôi òa khóc. Bức thư nói về nguyện vọng cuối cùng của anh là được hiến giác mạc cho Thy, anh muốn được ở bên tôi, muốn cuộc sống của anh thêm phần ý nghĩa khi được cùng tôi thắp lên tia hy vọng cho cuộc đời của đứa trẻ đầy bất hạnh. Đó là điều cuối cùng mà Thành mong ước.
 
 ★★★
 
 - Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không quên được ánh mắt đầu tiên của con bé Thy nhìn tôi, nhà báo ạ! - Cô giáo già rưng rưng nước mắt nói với tôi - nó thiết tha và trìu mến đến nỗi tôi không rời nơi đây mà đi đâu được.
 
 Tôi gập cuốn sổ tay đã chi chít những chữ lại, ngồi lặng im bên chị. Ý định đầu tiên khi đến đây là định viết về chị như một tấm gương nhà giáo bằng lòng yêu nghề, mến trẻ, say mê với công việc bám bản gieo chữ, vậy mà không thành. Bởi những yêu thương chị dành cho mảnh đất này còn nhiều hơn những điều tôi muốn viết.
 
 … Cô bé Thy ngày xưa nay đã trở thành cô giáo ở chính bản làng của mình. Còn người phụ nữ ấy vẫn ở một mình đến nay, bởi chị nói tình yêu đó với chị là mãi mãi…