Nhà văn là tác giả các tập ký sự Miền đất ngay cạnh bầu trời (1966), Người từ bên kia thế giới (1967), Xuôi dòng Lena (1995), Siberi, Siberi! (ba tập - 1991, 2000, 2006); truyện ngắn Natasha, Trọn đời sống - trọn đời yêu (1981), Ở vùng đất nọ (1995), Ngày tang chế (1996), Bất ngờ khó đoán (1997); truyện vừa Tiền cho Maria (1968), Bài học cuối cùng (1970), Những giờ học tiếng Pháp (1973), Sống mà nhớ lấy (1974), Vĩnh biệt Matyora (1976), Ðám cháy (1985), Con gái Ivan, mẹ của Ivan (2004)... Các tác phẩm của V.Rasputin đặc sắc ở tính thời sự, nhân văn với bút pháp chín muồi và tầm nhìn xa rộng. Nhờ đó, nhà văn có uy tín lớn, từng được bầu vào Xô viết Tối cao, Hội đồng của Tổng thống Liên Xô, được trao danh hiệu Anh hùng Lao động Xã hội chủ nghĩa (1987) và nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải Quốc gia (1977, 1987) và gần đây nhất, ngày 1-12-2011 là giải Văn chương Lớn "Vì lợi ích của nước Nga" của Hội Nhà văn Nga, Hãng vận tải hàng không "Alrosa", Ủy ban quốc tế Sholokhov và Thư viện Quốc gia Nga.
Nhân Ngày Quốc tế thiếu nhi, Báo Nhân Dân cuối tuần trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một trong những truyện ngắn cảm động của V. Ra-xpu-tin qua bản dịch của Ðoàn Nhân Chính.
Cậu bé mở mắt và trông thấy một con ruồi đang bò trên trần nhà. Mắt cậu hấp háy nhìn xem nó bò đi đâu.
Con ruồi tiến về phía có cửa sổ. Nó chạy không ngưng nghỉ, thành ra rất là nhanh.
Cậu bé cho rằng con ruồi đang chạy trên một con đường nên chờ xem có con ruồi nữa bò theo hay không để xác nhận đó quả thật là một con đường. Nhưng không thấy con ruồi nào khác. Sự thực là cũng có đấy, nhưng chúng không chịu bò trên trần, cho nên cậu chẳng buồn để ý. Cậu nhỏm dậy trên giường và gọi to:
- Mẹ ơi, con dậy rồi!
Không có ai đáp lời cậu bé.
- Mẹ ơi! - cậu lại gọi. - Con dậy rồi, giỏi không!
Im lặng.
Cậu bé chờ, nhưng sự im lặng không chịu qua đi.
Thế là cậu nhảy phóc khỏi giường và cứ để chân trần chạy ra phòng lớn. Phòng này trống vắng. Cậu nhìn khắp lượt, nhìn hết ghế bành sang chiếc bàn rồi nhìn lên tủ sách, nhưng tịnh không thấy một ai. Những đồ đạc ấy vẫn đứng nguyên cốt chỉ để chiếm chỗ.
Cậu bé chạy bổ sang phòng bếp, sau đó vào phòng tắm - cũng chẳng thấy ai nấp trong đó.
- Mẹ ơi! - cậu bé lại gọi.
Sự im lặng mở lòng đón rồi lập tức gói lại tiếng gọi của cậu. Không tin vào sự im lặng, cậu lại chạy bổ về phòng mình, để lại trên cái sàn nhà mới đánh bóng những dấu chân và vết tay. Chúng hiện hình, tan loãng rồi biến mất.
- Mẹ ơi, - cậu bé cố dịu giọng, - Con dậy rồi, làm sao không thấy mẹ.
Im lặng.
- Sao con không thấy mẹ, mẹ ơi? - cậu hỏi.
Nét mặt cậu căng thẳng mong đón câu trả lời, cậu ngó ngược ngó xuôi mà câu trả lời vẫn không thấy đến, thế là cậu bé bật khóc.
Vừa khóc cậu vừa chạy đến cửa ra vào và bắt đầu bặm môi mở. Cánh cửa không chịu đầu hàng. Thế là cậu dùng tay đập cửa, rồi dùng bàn chân trần đạp cửa đến trợt cả da và khóc càng to.
Cậu đứng như trời trồng ở giữa căn phòng, và những giọt nước mặt rõ ấm rõ to từ đôi mắt cậu lăn xuống cái sàn nhà mới đánh bóng. Sau đó cậu ngồi bệt xuống, vẫn không ngừng khóc.
Vạn vật chung quanh đều lắng nghe cậu và đều im lặng.
Cậu chờ, chắc là tiếng chân bước sắp đến sau lưng cậu, nhưng nào có thấy gì đâu, nên cậu không thể nào trấn tĩnh lại được.
Tình trạng đó kéo dài khá lâu, lâu đến bao nhiêu thì cậu không hề biết.
Rốt cuộc cậu lăn ra, vừa nằm vừa khóc.
Cậu đã mệt đến nỗi mất hết cảm giác, đã không còn nhận biết là mình đang khóc. Khóc lúc này cũng tự nhiên như hít thở, và không làm cậu yếu mềm đi. Ngược lại, cậu thấy mình còn mạnh mẽ hơn tiếng khóc.
Ðột nhiên cậu bé có cảm giác là trong phòng có người.
Cậu nhanh nhẹn nhỏm dậy, đứng lên và nhìn ngó chung quanh. Cái linh cảm vừa khiến cậu đứng dậy đã không chịu qua đi, và cậu bé lại chạy sang phòng khác, sau đó sang phòng bếp và vào nhà tắm. Ở tất cả các phòng đó đều không thấy một ai.
Cậu bé vừa sụt sịt vừa quay trở lại và đưa hai bàn tay lên bưng mắt. Sau đó cậu buông tay ra và ngó quanh một lần nữa. Trong phòng không có bất cứ sự thay đổi nào. Chiếc ghế bành trống chỗ, chiếc bàn đứng đó một mình, trên tủ sách, vẫn như mọi khi, là những cuốn sách, nhưng những gáy sách nhiều mầu trông mới buồn bã và trêu ngươi làm sao. Cậu bé nghĩ ngợi.
- Thôi, mình sẽ không khóc nữa, - cậu tự nhủ. - Mẹ về, sẽ thấy mình là thằng con giỏi.
Cậu đến bên giường lấy mép chăn chùi gương mặt còn nhoen nước mắt. Sau đó, cậu nhẩn nha như thể đang dạo chơi, rà soát khắp lượt tất cả những gì đang có ở trong nhà. Ðến lúc này, một ý tưởng lóe lên trong đầu cậu.
- Mẹ ơi, - cậu nói khẽ, - Con muốn ị bô.
Thực ra cậu đâu có muốn ngồi bô, nhưng đã nói thế, thể nào cũng buộc mẹ, nếu có ở nhà, sẽ phải lập tức mang bô ngay cho cậu.
- Mẹ ơi, - cậu gọi lại.
Mẹ không có ở nhà rồi, bây giờ thì cậu nắm chắc điều đó.
Phải làm cái gì đây chứ. "Bây giờ thì mình sẽ chơi, thể nào mẹ cũng về", - cậu bé quyết định. Cậu vào một góc phòng, chỗ để tất cả các thứ đồ chơi của cậu, và lấy ra một chú thỏ. Thỏ là đồ chơi ưa thích nhất của cậu. Một cái chân của nó đã bị rời ra, bố đã mấy lần nhắc cậu phải lắp cái chân đó vào, nhưng cậu không chịu nghe. Quý một con thỏ có đủ chân thì còn gì mà nói nữa, cho nên cứ để nó thiếu chân, còn chiếc chân rời ra thì nằm một xó quanh đây và cứ thế mà tự tồn tại.
- Chơi đi nào, thỏ, - cậu bé giục.
Chú thỏ lặng lẽ đồng tình.
- Chú là bệnh nhân đấy, chú bị đau chân, bây giờ ta sẽ chữa bệnh cho chú.
Cậu bé đặt chú thỏ lên giường, lấy một chiếc đinh gí vào bụng chú thỏ làm như thể tiêm cho chú một mũi thuốc.
Chú thỏ đã quen được tiêm thuốc nên không có phản ứng gì.
Cậu bé suy nghĩ một hồi, rồi như sực nhớ, rời khỏi chiếc giường và ngó ra căn phòng lớn.
Trong đó vẫn không có gì thay đổi, và sự im lặng vẫn cứ như trước, cứ chậm chạp lan ra từ góc này sang góc khác.
Cậu bé hít vào thật mạnh, quay trở lại chỗ giường và nhìn chú thỏ. Chú đang nằm yên hàn trên chiếc gối.
- Không, không làm như thế nữa, - cậu bé nói. - Bây giờ thì ta sẽ làm thỏ, và chú sẽ làm em bé. Chú sẽ chữa bệnh cho ta.
Cậu đặt chú thỏ lên chiếc ghế, còn mình thì nằm ra giường, tay bóp vào một bên chân và khóc.
Chú thỏ ngồi trên ghế ngạc nhiên hết cỡ, mở thao láo cặp mắt xanh lơ nhìn cậu.
- Ta là thỏ đây, chân ta đau quá, - cậu bé giải thích cho thỏ.
Chú thỏ vẫn im lặng.
- Này thỏ, - Sau đó cậu bé hỏi, - Thế mẹ đi đâu?
Chú thỏ không trả lời.
- Chú không ngủ thì chú biết chứ, nói đi nào, thế mẹ đi đâu? - cậu bé hỏi dồn và với tay lấy chú thỏ.
Chú thỏ im lặng.
Cậu bé quên mất rằng, trước đây, bao giờ chú cũng sắm cả hai vai và trả lời thay cho chú thỏ, nhưng bây giờ, cậu cứ nằng nặc đòi thỏ phải đáp lời. Cậu quên khuấy mất rằng chú thỏ chỉ là đồ chơi trong các thứ đồ chơi - giữa những hình khối tách rời chỉ chịu dựa vào nhau khi nào có bàn tay lắp ghép, giữa những xe cộ chỉ biết chạy khi có bàn tay vặn dây cót hoặc lắp pin vào, giữa những con thú biết gầm gừ hoặc chuyện trò khi có ai đó điều khiển chúng.
Cậu đã quên hết tiệt, cậu bé đó.
- Nói đi chứ, nói đi chứ! - cậu giục giã.
Chú thỏ tiếp tục im lặng.
Cậu bé vứt chú thỏ xuống sàn nhà, rồi cậu nhảy ra khỏi giường, vồ lấy chú thỏ, đá cho chú mấy cú.
Chú thỏ ngã quay đơ trên sàn, lăn long lóc, cậu bé cũng lăn long lóc quanh chú thỏ và luôn miệng giục giã: "Nói đi chứ, nói đi chứ, nói đi chứ!" - nhưng chú thỏ vẫn không trả lời và không thể chạy trốn đi đâu, bởi vì chú chỉ còn có mỗi một chân thôi. Và cậu bé bỗng nhiên hiểu ra điều đó. Cậu đứng dậy. Ðứng và nhìn chú thỏ dũi mũi xuống sàn và khóc không thành tiếng như thế nào. Nhưng cậu nghe thấy tiếng khóc đó. Cậu cúi xuống sát chú thỏ, buông hai cánh tay và nói như tự biết lỗi mình:
- Mẹ bỏ đi đâu ấy rồi.
Ðột nhiên cậu bé có cảm giác là ai đó đang lên cầu thang.
- Mẹ ơi! - cậu bé thét lên, chạy bổ ra cửa nhưng đụng phải chiếc ghế bành và ngã. Cậu gượng dậy, lắng tai nghe ngóng mà bên kia cánh cửa chẳng thấy động tĩnh gì. Ðến nước này thì cậu bé lại khóc. Cậu khóc vì đau đớn và cô đơn. Nỗi đau là gì, trước đó cậu đã biết. Còn với nỗi cô đơn thì nay cậu mới gặp lần đầu.