Làng nghề trước thách thức hội nhập

Làng nghề Việt Nam đã bước vào không gian kinh tế mới, khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) chính thức có hiệu lực từ 31-12-2015. Cơ hội lớn, nhưng thách thức thật sự đáng kể, đòi hỏi phải cấp bách thay đổi quy mô sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của mỗi sản phẩm hàng hóa. Quy hoạch lại để cùng thống nhất một giải pháp, sẽ là nấc thang quan trọng trong kiến tạo sức sống mới cho làng nghề truyền thống.

Nghệ nhân Đàng Xem ở làng gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận) trong xưởng sản xuất. Ảnh: THANH HÀ
Nghệ nhân Đàng Xem ở làng gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận) trong xưởng sản xuất. Ảnh: THANH HÀ

Nhu cầu của xã hội hiện đại

Làng nghề truyền thống thật sự là một di sản mà cha ông ta đã dày công xây dựng, với biết bao sản phẩm thủ công mỹ nghệ, có hàm lượng văn hóa, đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể nói, không đâu trên thế giới nhiều làng nghề như nước ta, mà ở đó nhiều làng nghề truyền thống cũng là làng khoa bảng, làng cách mạng… Ở từng giai đoạn lịch sử, làng nghề có những bước thăng trầm, và thời nào cũng tạo công ăn việc làm cho những cộng đồng dân cư lớn, tăng cường mối gắn kết tình làng nghĩa xóm.

Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu thật có lý khi cho rằng, sản phẩm công nghệ đang tiêu diệt hàng loạt những sản phẩm thủ công trên thế giới nhưng lại khuất phục và nhường chỗ cho sự lên ngôi của những sản phẩm mang tính chất lượng cao về mặt thẩm mỹ của những nghệ nhân có tài năng và tâm huyết trong làng nghề. Chính những sản phẩm vô giá ấy đang trở thành một nhu cầu ngày một khẩn thiết của xã hội văn minh.

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra, vào các năm 2004 và 2005, làng nghề Việt Nam phát triển rực rỡ nhất, thu hút 13 triệu lao động nông thôn, trong đó có 35% lao động thường xuyên, thu nhập từ lao động làng nghề cao gấp từ hai đến năm lần so với làm nông nghiệp. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tích cực hơn nữa trong việc củng cố sức mạnh làng nghề, gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới, góp phần an sinh xã hội vùng nông thôn. Sâu xa, đó cũng là cách góp phần giải bài toán quản lý xã hội vùng nông thôn, trong vấn đề di dân, trật tự an toàn xã hội. Làng nghề phát đạt, cùng với các hương ước lâu bền, sẽ góp phần không chỉ ổn định đời sống kinh tế, mà cả vật chất cho người dân, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.

Quá nhiều rào cản

Dẫu đã có không ít làng nghề bị mai một theo thời gian, nhưng cả nước hiện vẫn có hơn 4.000 làng nghề và làng có nghề hiện đang hoạt động. Tuy nhiên, hầu hết trong số này vẫn hoạt động theo mô hình tự phát, manh mún. Không ít trong số đó có nguy cơ biến mất. Vì sao vậy?

Thứ nhất, làng nghề cũng chịu áp lực tăng dân số, đòi hỏi mặt bằng sản xuất lớn. Song vấn đề mở cụm công nghiệp để di dời làng nghề lại đang là điểm vướng của hầu hết các địa phương. Cùng với đó, việc hoạt động thiếu tính định hướng, thiếu liên kết nên thiếu hẳn một khâu quan trọng là ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo sự đa dạng trong mẫu mã sản phẩm. Từ đó, ngay ở trong nước sản phẩm đã lạc hậu, khó cạnh tranh, chứ chưa nói gì đến quốc tế. Do vậy, không thể tiếp cận được với những đơn đặt hàng lớn.

Thứ hai, 80% hộ dân làng nghề khó tiếp cận vốn, từ đó co cụm trong sản xuất, không mở rộng được quy mô, phát triển khâu tuyên truyền, quảng bá, xây dựng thương hiệu. Các sản phẩm bằng chất liệu công nghiệp áp đảo thị trường, gây nên biết bao khó khăn cho các làng nghề thủ công truyền thống như dệt lụa Vạn Phúc, thêu Quất Động, thêu Cổ Chất, mây tre đan Phú Vinh, Phú Túc, gốm Chu Đậu, đồng Đại Bái, chạm bạc Đồng Xâm… Thêm nữa, nhận thức chưa đúng tầm quan trọng về làng nghề truyền thống của các cấp chính quyền, cùng chính sách tồn tại nhiều khuyết thiếu gây nên sự thiếu đồng bộ và chậm trễ trong việc hỗ trợ đào tạo nhân lực, nguồn vốn, khắc phục ô nhiễm... Lĩnh vực du lịch gắn với làng nghề, do chưa có định hướng và hỗ trợ nên còn nhỏ lẻ, tự phát.

Quy hoạch và định hướng lại

Đó là những giải pháp sống còn cho các làng nghề trước cánh cửa hội nhập. Bởi với thuế suất bằng 0%, hàng ngoại nguy cơ áp đảo hàng nội. Sản phẩm từ làng nghề cũng vậy, phải đủ sức cạnh tranh, để không chỉ là những mặt hàng được tiêu thụ trong nước, mà có khối lượng xuất khẩu lớn. Muốn thế, làng nghề phải phát triển theo hướng đầu tư mở rộng doanh nghiệp nhỏ và vừa để hỗ trợ lẫn nhau, từ đó xây dựng những doanh nghiệp “đầu đàn”, làm đầu mối vừa dẫn dắt, định hướng, vừa bao tiêu sản phẩm. Bởi khi là doanh nghiệp, việc vay vốn sẽ dễ dàng hơn. Từ đó cũng có điều kiện xây dựng thương hiệu, tìm hiểu luật quốc tế, thương mại điện tử, nắm bắt nhu cầu thị trường… phục vụ tốt hơn cho công tác sản xuất, xuất khẩu.

Khai thác phục vụ du lịch góp phần mở rộng cơ hội phát triển cho làng nghề. Ảnh: ĐĂNG ANH

Một thí dụ điển hình cho câu chuyện thành công là làng gốm Bát Tràng. Từng có thời gian dài cũng vô cùng khó khăn, nhưng các doanh nghiệp và chính quyền ở đây đã tìm cách quy hoạch rất bài bản, có định hướng sản xuất các loại mặt hàng, áp dụng công nghệ mới. Bát Tràng cũng có cả trăm doanh nghiệp gia đình, trong đó bảy doanh nghiệp lớn làm nhiệm vụ bao tiêu sản phẩm, kết hợp quảng bá. Làng cũng có khu trưng bày giới thiệu, bảo tàng thu hút đông khách tham quan. Hay ở Bến Tre có làng rượu Phú Lễ, làng kẹo dừa cũng được quy hoạch khá tốt, từ đó mà bà con được hưởng lợi từ nghề. Đó là những mô hình mà các làng nghề khác cần học tập.

Chúng tôi thấy rằng, vấn đề lúc này là cần phải quy hoạch lại hệ thống làng nghề truyền thống trong cả nước, theo đó đầu tư có chiều sâu cho hệ thống làng nghề có giá trị cao về văn hóa, đã và đang góp phần bảo lưu những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc. Thời gian vừa qua, nhiều văn bản, chính sách về quy hoạch, kiểm soát ô nhiễm làng nghề đã được ban hành. Song việc đầu tư cho làng nghề tại các địa phương hiện đang quá dàn trải, và vẫn chủ yếu loay hoay khắc phục ô nhiễm của những làng tái chế, làng có nghề mà chưa có sự đầu tư trọng tâm cho những làng nghề đang có nhu cầu bảo tồn thật sự. Chúng ta cần khuyến khích, quy hoạch phát triển những làng nghề có tính chất cha truyền con nối, đặc trưng của vùng văn hóa, gắn với du lịch. Để khi nhắc đến vùng đó, làng đó là người ta có thể thấy ngay điểm nổi trội là gì, sản phẩm nào nổi tiếng... Cần loại bỏ tâm lý đang khá phổ biến ở nhiều địa phương, là thích sở hữu nhiều làng nghề, nhưng lại không tinh, không mạnh.

Trong buổi tọa đàm tìm giải pháp phát triển làng nghề, Chủ tịch UBT.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân phát biểu: Cần khoanh theo nhóm của từng nghề, như nghề mây tre đan, gỗ, chế biến thực phẩm, tái chế kim loại… Từ đó đưa ra những giải pháp cải thiện môi trường, quy hoạch, đầu tư mở rộng, áp dụng khoa học kỹ thuật để đưa làng nghề phát triển.

"Không chỉ là thách thức giữa tồn tại hay không tồn tại, mà thách thức về ô nhiễm môi trường đang buộc các làng nghề phải có một cuộc “lột xác” trong quy hoạch với một tư duy và quyết tâm cao hơn."