Hướng đi tất yếu cho kiến trúc xanh

Tốc độ phát triển về số lượng công trình kiến trúc đạt tiêu chuẩn công trình xanh ở Việt Nam hiện là 30%. Bên cạnh đó, sự đa dạng về quy mô và hình thái công trình: từ nhà ở, xưởng chế tác thủ công, không gian làm việc chia sẻ, đến các khu chung cư và đô thị mới, tòa nhà phức hợp, cơ quan, trường học,... cho thấy mối quan tâm ngày càng cao của xã hội dành cho kiến trúc xanh.
Không gian Ngói (Ngói space, Hà Nội 2021), một công trình tư nhân theo hướng kiến trúc xanh. Ảnh: Công ty kiến trúc HPA
Không gian Ngói (Ngói space, Hà Nội 2021), một công trình tư nhân theo hướng kiến trúc xanh. Ảnh: Công ty kiến trúc HPA

Những thuận lợi nền tảng

Những thiết kế tận dụng thiên nhiên cho không gian sống của con người nhưng không phải để áp chế mà là sống hài hòa cùng thiên nhiên đã là triết lý kiến trúc của người Việt từ trong truyền thống; điều này được phản ánh rõ nét qua kiến trúc của các công trình "lớn" hơn nhà, như là đình, chùa, đền, miếu, lăng tẩm... Đó thật sự là một thuận lợi nền tảng cho kiến trúc xanh-công trình xanh hôm nay, sau một vòng xoay của sự phát triển của xã hội với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và sự ảnh hưởng sâu rộng của các trào lưu kiến trúc trên thế giới. Như phân tích của kiến trúc sư Đoàn Thanh Hà (Công ty kiến trúc HPA), kiến trúc-cấu trúc nhân tạo theo cách tự nhiên cùng với vật liệu thân thiện môi trường, nói cách khác chính là kiến trúc xanh, cứu con người sớm thoát khỏi tam giác hệ lụy của biến đổi khí hậu (thiên), ô nhiễm và dịch bệnh (địa) và xã hội do chính con người (nhân) tạo ra đã và đang bị phân cực, phân hóa cao độ.

Cùng với đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây thể hiện rõ quyết tâm đưa đất nước phát triển bền vững, trong đó riêng ở lĩnh vực xây dựng và sử dụng năng lượng đã có Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về "Định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045", Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09:2017/BXD về các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả; Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050… Đây chính là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi cho cơ hội phát triển các công trình kiến trúc xanh với quy mô xây dựng ngày càng lớn hơn, sử dụng vật liệu thân thiện môi trường và tiết kiệm, tái tạo năng lượng.

Thách thức và giải pháp vượt qua

Tuy nhiên, theo bà Mélanie-Lan Dorémus, kiến trúc sư, Tổng Giám đốc Văn phòng Đông Nam Á của AREP- Tập đoàn thiết kế kiến trúc hàng đầu của Pháp, tốc độ đô thị hóa đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi với những đòi hỏi xây dựng nhanh chóng, tràn lan, cùng với tình trạng phá rừng đã và đang dẫn đến việc suy giảm đa dạng sinh thái của Việt Nam, quốc gia vốn đứng thứ 16 trên toàn cầu về sự đa dạng sinh thái. Trong môi cảnh "xanh" bao trùm đang bị đe dọa ấy, các công trình xanh, kiến trúc xanh cần phải được quan tâm bằng chính sách tài chính thiết thực.

Đưa ra thí dụ về một số công việc đang làm ở một khu vực đầm phá thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, với mong muốn làm thế nào để khu vực này không bị đô thị hóa nhanh chóng, bà M.L. Dorémus nhấn mạnh đến hai khía cạnh đồng thời: Ý thức của doanh nghiệp đầu tư quy hoạch và xây dựng trong việc bảo vệ khu vực xanh này đồng thời với chính sách hỗ trợ về vốn, tín dụng của Nhà nước cho doanh nghiệp muốn theo đuổi đầu tư các công trình xanh ở đây, từ các công trình công cộng đến công trình mang mục đích kinh doanh thương mại và dân sinh.

Trên thực tế, chi phí xây dựng ban đầu cho một công trình kiến trúc đạt chuẩn công trình xanh theo hệ thống đánh giá chính thức với các tiêu chí chung theo thông lệ quốc tế (ở Việt Nam là thông qua Hội đồng Công trình xanh Việt Nam-VGBC) thường cao hơn chi phí xây dựng thông thường. Theo kiến trúc sư Nguyễn Thùy Dung, cán bộ Viện Kiến trúc quốc gia (Bộ Xây dựng), phần chi phí phụ trội luôn là một thách thức đối với phát triển công trình xanh ở Việt Nam: "Chi phí này bao gồm chi phí tư vấn để thiết kế, xây dựng công trình xanh; chi phí chứng nhận công trình xanh, chi phí xây dựng cho những phần có giải pháp xanh và tiết kiệm năng lượng mà chủ yếu là vật liệu và thiết bị, thí dụ như vòi nước hay thiết bị vệ sinh có giải pháp tiết kiệm năng lượng cũng đều có giá thành cao hơn". Theo bà Dung, chi phí phụ trội cho một công trình xanh ở Việt Nam dao động từ 1,2% đến trên 10% tổng chi phí xây dựng, tùy theo hạng chứng nhận (với bốn mức: Chứng nhận, Bạc, Vàng và Bạch kim).

Ở một số quốc gia có số lượng lớn công trình kiến trúc xanh ngay trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, Malaysia (Singapore hiện có hơn 4.000 công trình, Malaysia có hơn 500 công trình và Thái Lan là hơn 400 công trình), các chính phủ đều lồng ghép phát triển công trình xanh vào trong chính sách quản trị vĩ mô. Chương trình tổng thể công trình xanh quốc gia lần thứ hai (năm 2009) của Singapore xác định vị trí dẫn đầu về công trình xanh phải là các công trình của nhà nước, đồng thời với đó là thành lập các gói tín dụng, quỹ hỗ trợ cho tư nhân muốn đầu tư xây dựng công trình xanh. Chính sách giảm thuế hoặc cho phép tăng hệ số sử dụng đất, tăng diện tích được xây dựng tại Thái Lan và Malaysia không chỉ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho kiến trúc xanh mà còn góp phần nâng cao nhận thức và ý thức của doanh nghiệp, người dân về trách nhiệm xã hội đối với việc bảo vệ nguồn xanh cho hiện tại và tương lai của đất nước. Đây chính là những tham khảo giải pháp thiết thực cho Việt Nam.