Sự lãng phí lớn về chất xám, nguồn lực
Theo thống kê của Bộ Nội vụ, năm 2025, lực lượng lao động đạt khoảng 53,2 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,22% (giảm 0,03% so với năm trước); tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1,65% (giảm 0,34 điểm % so với cùng kỳ năm trước). Sự khởi sắc này có được là nhờ các cơ quan chức năng, các trung tâm dịch vụ việc làm trên cả nước đã nỗ lực đẩy mạnh kết nối cung-cầu lao động, thông qua việc tổ chức thường xuyên và đa dạng các phiên giao dịch việc làm, kết nối trực tuyến giữa các địa phương. Ngoài ra, một số trung tâm đã phát triển nền tảng giao dịch việc làm điện tử, giới thiệu việc làm cho quân nhân xuất ngũ, lao động làm việc ở nước ngoài hồi hương, giúp không ít người tìm được việc làm ổn định.
Song, trong thực tế, tình trạng thất nghiệp cục bộ vẫn diễn ra, nghịch lý “thừa thầy, thiếu thợ” còn phổ biến, khi nhiều ngành cần lao động như công nghệ thông tin, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI)… tăng mạnh nhưng Việt Nam lại chưa đáp ứng được. Nguyên nhân cốt lõi là chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, hiện mới khoảng 29,2% lao động Việt Nam được đào tạo có chứng chỉ nghề, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số.
Trước vấn đề này, ông Vũ Quang Thành, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội, nêu vấn đề: “Tỷ lệ thất nghiệp chung ở Việt Nam duy trì ở mức thấp, nhưng tỷ lệ thất nghiệp thanh niên lại có xu hướng gia tăng, đặc biệt là ở nhóm lao động bị cắt giảm do tái cơ cấu và chuyển đổi xanh. Thống kê của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy: Có khoảng 1,6 triệu thanh niên từ 15-24 tuổi hiện không có việc làm và cũng không tham gia học tập hoặc đào tạo, chiếm 11,5% tổng số thanh niên. Riêng Hà Nội, năm 2025 có nhiều biến động. Số lao động bị ảnh hưởng do sắp xếp lại bộ máy là khoảng 11.000 người”.
Một tình trạng khác cũng đang xảy ra khá phổ biến, như GS, TS Giang Thanh Long (Đại học Kinh tế quốc dân) nhận định: Tỷ lệ lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên làm việc không đúng chuyên môn, hoặc thất nghiệp đang cao hơn so với nhóm lao động có trình độ thấp. Điều này cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo và nhu cầu việc làm thực tế, kéo theo sự lãng phí lớn về chất xám và nguồn lực xã hội.
Vai trò then chốt của giáo dục nghề nghiệp
Theo dự báo, thị trường lao động Việt Nam năm 2026 vẫn tiếp đà tăng trưởng. Nhưng, để quá trình ấy rõ nét và bền vững hơn, thị trường lao động phải vượt qua nhiều thách thức, nhất là phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao và thích ứng với quá trình chuyển đổi số. Câu hỏi đặt ra: Làm thế nào để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhanh và bền vững?
Trước hết, phải xây dựng được chính sách đồng bộ, cả ngắn hạn và lâu dài. Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, xác định: “Giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao” và là một phần cấu thành quan trọng của “hệ thống giáo dục mở, liên thông, học tập suốt đời”. Bởi thế, phải coi phát triển giáo dục nghề nghiệp là nhiệm vụ trọng yếu trong khai thác “thời cơ dân số vàng”, phổ cập nghề cho thanh niên, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ mới.
Ấy thế nhưng, trong thực tế, hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang có quá nhiều vướng mắc. Cả nước hiện có hơn 1.163 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhưng phần lớn quy mô nhỏ, chất lượng không đồng đều. Đó là lý do gần đây, Bộ Nội vụ ban hành hướng dẫn các địa phương sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Các cơ quan chức năng đã “xắn tay vào việc”, nhưng cần đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả; từ cuối năm 2025 và đầu 2026 phải chuẩn bị kỹ càng để sẵn sàng tăng số lượng lao động có tay nghề cao, có tác phong công nghiệp. Nếu không chuẩn bị tốt, Việt Nam có thể rơi vào tình trạng “đói lao động”, nhu cầu tăng nhưng cung không đáp ứng vì thiếu kỹ năng. Việc sắp xếp trường nghề không chỉ là giảm số lượng, mà còn là bài kiểm tra tư duy chiến lược và năng lực cải cách của từng địa phương.
Ngoài ra, để giảm tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, cần phải định hình lại công tác phân luồng học sinh theo hướng quyết liệt và hiệu quả hơn. Ở Việt Nam, không ít học sinh vào trường nghề trong tâm thế bị động, thiếu định hướng, dẫn đến chất lượng đào tạo chưa cao. GS, TS Giang Thanh Long nêu kinh nghiệm quốc tế: “Trong khi xã hội ta còn nặng tâm lý sính bằng đại học và coi nhẹ học nghề, thì ở nhiều quốc gia phát triển như Nhật Bản, Đức, hệ thống đào tạo nghề được tổ chức rất bài bản, phân luồng rõ ràng từ sớm, đào tạo sát với nhu cầu thị trường lao động. Người học nghề được trang bị kỹ kiến thức chuẩn hóa, ra trường làm được việc ngay và có cơ hội phát triển”.
Ở góc độ chuyên gia dự báo về nhân lực, ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất: “Để cân bằng cung-cầu lao động, các doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách cần tiếp tục các biện pháp tập trung vào phân tích thị trường, đổi mới công nghệ, triển khai chính sách kích cầu phù hợp, tạo sự hài hòa, ổn định kinh tế. Cùng đó, tăng cường công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh liên kết, hợp tác đồng bộ các hoạt động hướng nghiệp, tuyển sinh, đào tạo gắn với thực hành và nhu cầu sử dụng lao động”.
Muốn giải bài toán khó, cần có sự phối hợp mang tính liên ngành. Trong đó, phải xây dựng được cơ chế đủ mạnh khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ và đào tạo nghề; hình thành trung tâm đổi mới sáng tạo thông qua sự phối hợp các nhà trường và doanh nghiệp ■
Các sản phẩm phân tích và dự báo thị trường lao động đóng vai trò như chiếc “la bàn chiến lược”, cung cấp các thông tin xu hướng nhân lực, mức lương và kỹ năng cần thiết cho tương lai. Những dữ liệu này không chỉ giúp doanh nghiệp có kế hoạch nhân sự chủ động mà còn giúp người lao động, các cấp quản lý có cơ sở vững chắc để đưa ra những quyết định đúng đắn, góp phần xây dựng thị trường lao động Thủ đô hiện đại và phát triển bền vững”.
Ông Vũ Quang Thành, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội