Sức người thay đổi “cánh đồng hoang”
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, hưởng ứng phong trào xây dựng vùng kinh tế mới của Chính phủ phát động, nhằm cải tạo một vùng đồng chiêm trũng rộng lớn Đồng Tháp Mười mênh mông nước ngập, chua phèn; những người nông dân lam lũ từ đồng bằng sông Hồng đã lên đường vào nam với quyết tâm cải tạo những cánh đồng hoang.
Năm đó, vợ chồng ông Bùi Đăng Vùng và bà Đào Thị Tho mang theo ba con nhỏ cùng rổ rá giần sàng, khi ấy cậu con trai út chưa đầy một tuổi, từ huyện Ninh Giang (Hải Hưng) vào nam. Cùng thời điểm đó, anh Vũ Kim Thành cũng theo bố mẹ và nhiều hộ khác ở Việt Yên (Bắc Giang) và các tỉnh lân cận lên tàu. Vậy là hàng trăm hộ dân quê Hải Hưng (nay là Hưng Yên và Hải Dương), quê Hà Bắc (gồm Bắc Ninh, Bắc Giang) đã vào vùng Đồng Tháp Mười rồi tỏa đi Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang lập làng, cải tạo đồng đất để gieo trồng.
Gặp ông Vùng, anh Thành ở xã Hưng Hà (huyện Tân Hưng, Long An), nghe ông Vùng kể: “Lúc mới vào nản lắm chú ạ. Đâu có đường đất như bây giờ, khắp nơi nước ngập, đi lại hoàn toàn bằng xuồng ghe, thậm chí lội nước hoặc bơi. Đồng đất thì chua phèn, chẳng trồng cấy gì được”.
Những vụ lúa đầu hễ sắp đến mùa thu hoạch là nước ngập, mất mùa, nghèo đói bủa vây. Không biết bao nhiêu mùa nước nổi, vợ chồng ông Vùng cùng các con cũng như các hộ dân khác phải ngâm mình lạnh cóng trong nước để vớt lên từng bông lúa, có khi hạt đã nảy mầm, chỉ mong sao “may ra qua được đận giáp hạt”.
Sau khi vào Long An được hơn một năm, đồng đất chua phèn, cỏ mọc lút đầu người, cấy trồng cực khó; ở quê thì đã trót bán hết nhà cửa ruộng vườn, vợ chồng ông Vùng đã bao đêm ôm con khóc ròng. Nghĩ rằng, đồng đất này thì làm gì được mà ăn; vậy là sang năm 1993, sau hai năm liên tiếp lũ về, mất mùa, ông trả lại hết công ruộng cho hợp tác xã, kéo vợ con trở lại quê Ninh Giang. Đi cũng dở ở không xong, về quê rồi lại chẳng biết làm gì, năm 1994, gia đình ông lại quay trở vào Tân Hưng lần hai, thuê lại ruộng và sống tại ấp Hà Thanh. Ông kể, mỗi lần đi về thêm một lần trắng tay. Vào đây lại phải gây dựng từ đầu.
Dần dà, người dân cùng chung tay làm thủy lợi, đào kênh xẻ rãnh, dẫn nước ngọt từ các ngả sông vào để rửa mặn thau chua cho đồng cho bãi. Rồi năm tháng nhọc nhằn cũng qua đi, khi việc thau chua rửa mặn đã thành công, cây lúa cho thu hoạch, mỗi mùa nước nổi về lại đem theo cá tôm. “Mỗi mùa nước nhảy là cá tôm ê hề. Mất lúa nhưng còn kiếm được vụ cá. Mấy năm trước hạn hán nhiều, hơi lo, nhưng mùa này nước về sớm. Mừng rồi!” - ông Vùng, nay là Trưởng ấp Hà Thanh vừa khoát tay về phía cánh đồng vừa nói: “Còn may là vùng này chưa bị ngập, sắp thu hoạch đến nơi rồi”.
Hồi mới vào lập ấp, đồng đất nhiễm phèn nặng, bà con cấy lúa chỉ thu được hai, ba tạ thóc trên một héc-ta. Chính quyền và bà con cùng đoàn kết, quyết tâm xây dựng vùng “kinh tế mới”, tổ chức đào kênh xả phèn, nghiên cứu giống lúa chịu được điều kiện thổ nhưỡng nơi đây. Cứ thế, đất đai thuần dần, năng suất lúa tăng từng năm, từ 2 đến 3 tấn, rồi 4-5 tấn/ha. Từ một vụ, nay bà con cấy được hai, thậm chí có nơi ba vụ lúa/năm, năng suất mỗi vụ hơn 6 tấn/ha. Nhiều hộ còn trồng xen được thêm vụ màu và các loại cây trồng khác, trồng cả rừng. Cây tràm cũng sinh sôi từ đó.
Niềm vui lan tỏa
Với sứ mạng khai phá, cải tạo cánh đồng hoang, nhiều gia đình nông dân ra đi từ đồng bằng sông Hồng đến Đồng Tháp Mười đã chung sức, dày công biến nơi đây thành vựa lúa lớn cho cả nước và xuất khẩu ra thế giới.
Tính riêng xã Hưng Hà, huyện Tân Hưng với hơn nửa dân số vốn là cư dân sông Hồng mỗi năm đã làm ra khoảng 40 nghìn tấn lúa, trong đó hơn 90% là lúa thương phẩm.
Sau những tháng ngày gian khó, Đồng Tháp Mười trải dài trên địa phận ba tỉnh Long An, Tiền Giang và Đồng Tháp dần khởi sắc. Cộng đồng dân cư khắp mọi miền, nhất là những nông dân đến từ đồng bằng sông Hồng đã mang đến mảnh đất này tinh thần lao động hăng say, quyết tâm chinh phục thiên nhiên và đem theo cả nét văn hóa quê cha đất tổ vào cùng dựng xây nên đời sống mới. Ngay giữa Đồng Tháp Mười đã có những “làng sông Hồng” trù phú không chỉ phát triển kinh tế, hạ tầng, mà những đặc trưng văn hóa vùng miền cũng được gìn giữ, giao thoa cùng văn hóa bản địa.
Về Long An hôm nay, trong câu chuyện với người dân nơi đây, nhiều người vẫn nhớ tại kỳ hội diễn văn nghệ quần chúng toàn tỉnh năm 1995, khán giả đã bất ngờ khi lần đầu được xem trên sân khấu Nam Bộ các tiết mục hát quan họ. Chẳng là, trước đó, có lần ông trưởng phòng văn hóa - thông tin huyện đi công tác về xã. Khi ngang qua rừng tràm, ông chợt nghe văng vẳng khúc dân ca quan họ. Ban đầu cứ ngỡ ai mở đài, nhưng khi đến gần, hóa ra là mấy cô gái vừa chăm sóc tràm vừa hát. Từ đó, ngành văn hóa của huyện của tỉnh thêm quan tâm đến một nét văn hóa sông Hồng, những làn điệu chèo, quan họ đã có thêm cơ hội ngân lên giữa miệt vườn Nam Bộ, xen lẫn giai điệu thánh thót đàn kìm và lời ca điệu vọng cổ.
Khi đời sống người dân mỗi ngày một khấm khá, những ấp đại học được lập để động viên thế hệ trẻ. Ngày trước, tỷ lệ học sinh ở đây bỏ học rất cao, số em học hết THPT rất thấp, hiếm hoi lắm mới có em học lên đại học. Thế nhưng, chỉ chừng 10 năm trở lại đây, ở giữa Đồng Tháp Mười đã hình thành những ấp đại học. Chẳng có quy định cụ thể nhưng các gia đình thi đua, quan tâm, chăm lo hơn đến việc học của con cái. Nhờ đó, số lượng học sinh được học lên đại học, cao đẳng, học nghề ngày một tăng.
Chàng trai Vũ Kim Thành năm xưa theo gia đình từ Bắc Giang vào đây lập nghiệp, nay đã là Chủ tịch UBND xã Hưng Hà. Anh tâm sự, truyền thống hiếu học không chỉ giúp các cộng đồng kinh tế mới nuôi con ăn học lên cao, mà còn tác động lan tỏa, thôi thúc người dân sở tại phấn đấu cho con học hành đàng hoàng.
Một thời gian khó đã qua, như những mùa sen mênh mông tỏa hương thơm ngát. Những nụ cười đang mỗi ngày tỏa rạng trên gương mặt còn hằn in vết bùn đất của người nông dân vùng đất phóng khoáng này.