Có lẽ vì thế mà “danh thật” thường được trân trọng hiểu là “chính danh” hay “thanh danh”. Nhà nho ngông nghênh tài cao Nguyễn Công Trứ lúc làm đôi câu thơ răn mình “làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông” là hiểu chữ “danh” theo nghĩa tích cực ấy. Thực ra, chữ “danh” sâu xa vốn sạch, ví như núi mà cô ngạo tự nhiên ngất ngưởng hùng vĩ thì gọi là “danh sơn”. Người có chữ mà tài cao đức dầy thì gọi là “danh sĩ”. Lời mà ngay thẳng minh chính, làm tất cả tâm phục khẩu phục thì gọi là “danh ngôn”. Đại loại, tất cả những thứ này luôn được người đời yêu mến gọi là Thanh Danh. Người và vật đã “thanh danh” thì cho dù có bị vùi dập hay nhúng bẩn cũng không thể mất danh. Vì thế “danh sạch” là thứ đồng tiền vĩnh viễn không bao giờ mua nổi. Phải là kẻ ngu xuẩn tha hóa lắm thì sau khi chạy chức mới hoang tưởng liều lĩnh đi chạy danh. Do vậy, khi nhắc tới hai từ Thanh Danh, biết bao kẻ sĩ đều kính cẩn nghiêng mình run rẩy. Lời cổ có câu “sĩ khả sát bất khả nhục”. Kẻ sĩ có thể chết chứ nhất quyết không chịu làm những điều gì ô danh. Dũng tướng của triều Trần là Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, sau trận chiến ác liệt nhỡ sa cơ vào tay giặc thì vừa bị dọa nạt vừa bị dụ dỗ, nhưng ông chỉ điềm đạm phanh ngực khẳng khái nói “ta thà là quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” rồi vươn đầu chịu chém. Hỡi ôi, đại danh Đại Việt đâu phải ngẫu nhiên mà có, khi mà trên từng mét đất của sông núi bi tráng này luôn đẫm đầy những danh dự xương máu của không biết bao nhiêu anh hùng liệt sĩ.
Nghiêm túc theo từ điển, sách Thuyết Văn giải tự có giải thích. “Danh là tự xưng bản thân mình, được tạo thành do kết hợp giữa bộ Khẩu (miệng) và Tịch (ban đêm). Vì đêm không nhìn ra nên phải dùng miệng để xưng mình”. Danh là tiêu chí nhằm phân biệt người này với người kia ngay cả lúc mặt trời đang rừng rực sáng, nên cổ nhân Việt thường đánh giá cao việc “chính danh”. Ông là ông, thằng là thằng, một xã hội tử tế minh bạch thì không có chuyện dở ông dở thằng. Giáo dục ở ta cũng nhấn mạnh, trường phải ra trường, lớp phải ra lớp, thầy phải ra thầy, trò phải ra trò. Khi mà một hiệu trưởng lợi dụng quyền hành mua dâm nữ sinh thì tuyệt đối không được gọi là thầy, chỉ đơn giản gọi là “thằng đểu”. Bởi danh ảo (hư danh) thường được sinh ra khi một thằng thực chất là thằng nhưng cố xưng xưng tỏ mình là ông. Không phải ngẫu nhiên mà Khổng phu tử, tổ sư của Nho giáo, đã dặn đi dặn lại đệ tử, danh có chính thì ngôn mới thuận. Lời nói của người đã lương thiện chính danh thì bao giờ cũng chính đáng trôi chảy.
Danh trong tiếng Việt nôm na là “tên”, cốt phân biệt người này với người kia khi chung sống giao tiếp. Còn “chính danh” nôm na là “đúng tên” khi mà một ai đó bắt buộc phải thể hiện ra những cái mà mình thực có. Ví như đã mang danh là hâm mộ nghệ thuật thì chẳng bao giờ lại đi lẫn lộn Thành Chương vào Tạ Tỵ. Thậm chí, những kẻ liều lĩnh làm vậy còn chẳng thể xứng danh là người buôn tranh. Hoặc ví như đã mang danh là ca sĩ thì da mặt phải mịn như da mông, ngữ điệu phải du dương ỏn thót kể cả lúc hung hăng khoe của hay lúc xỉa xói đố kỵ đồng nghiệp. Tất nhiên muốn chính danh (có tên) thì đầu tiên phải tạo danh. Cách đơn giản nhất là do bố mẹ đặt. Theo cuốn Việt Nam phong tục của học giả Phan Kế Bính thì “ở nhà quê, con mới sinh ra thì gọi là thằng cu con đĩ. Ở vùng Thanh Nghệ thường gọi là thằng cò con hĩm, chứ không mấy người sinh ra đã đặt tên. Đặt tên thì nhà thường dân hay bạ tên gì đặt tên nấy, hay lấy vần lấy nghĩa gần nhau mà đặt. Ví như cha mẹ là Lần thì đặt tên con là Thần. Cha mẹ là Nhăng thì đặt tên con là Nhố”. Người Việt gọi những tên sơ khai đấy là tên “sữa” hay tên “cúng cơm”. Rồi khi trưởng thành, tự thấy mình mùi sữa đã bớt hoi thì sẽ chuyển tên, nhất là những đàn bà đang bon bon thành đạt. Trường hợp của người đẹp nổi tiếng Lý Nhã Kỳ có tên “sữa” là Trần Thị Thanh Nhàn chẳng hạn. Đây không hẳn là một danh ảo, bởi theo giải thích của chính cô trên Wikipedia, khi sửa tên, cô lấy là Kỳ vì đời cô gặp lắm chuyện bất ngờ. Nhưng cô vẫn giữ một nghĩa của chữ “nhàn” nên lấy lót là “nhã”. Thật đúng như nhận xét của cụ Phan “bạ gì đặt nấy, hay lấy vần lấy nghĩa gần nhau mà đặt”. Linh tinh như vậy để thấy cô Kỳ quả không hổ danh là đại sứ du lịch đầu tiên của người Việt đương đại.
Xã hội bây giờ quá văn minh nên nhiều danh thật hay lẫn vào danh ảo. Thí dụ rõ rệt nhất là những nickname nửa hư nửa thực nhan nhản trên mạng internet. Không ít kẻ núp danh để ăn nói quàng xiên xằng bậy nhăng nhố. Nhưng dù gì thì gì, đa phần những người tử tế đều khao khát một “danh thật” với nghĩa Chính Danh. Bởi Danh chính là sự kết tinh vất vả của việc tu thân dưỡng tính, của sự khốn khó giữ mình biết đủ, để có dịp nào đó còn kịp cống hiến hy sinh vị tha đem chút ít hạnh phúc nhỏ nhoi cho đời.
Trong lịch sử của nhân loại, đã có rất nhiều tấm gương của những người bình thường chỉ giản dị biết giữ toàn danh dự thì xấp xỉ cũng được trân trọng coi gần ngang các bậc tiết liệt anh hùng.