Chìa khóa cho động lực phát triển kinh tế

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn thủy điện khá dồi dào, với khoảng ba nghìn con sông, phân bổ khắp đất nước. Để duy trì và sử dụng phát huy hiệu quả thủy điện đã có và sẽ xây dựng, công tác quản trị đối với hệ thống thủy điện cần được đặt lên hàng đầu. Bởi, ngoài cung cấp điện, thủy điện còn tham gia điều tiết lũ, bảo đảm môi trường sinh thái, đặc biệt bảo đảm an ninh nguồn nước.
0:00 / 0:00
0:00
Công nhân Công ty Thủy điện Đồng Nai (GENCO1) kiểm tra an toàn hồ, đập thủy điện Đồng Nai 3. Ảnh: Ngọc Hà
Công nhân Công ty Thủy điện Đồng Nai (GENCO1) kiểm tra an toàn hồ, đập thủy điện Đồng Nai 3. Ảnh: Ngọc Hà

Nguồn năng lượng chính đáp ứng nhu cầu điện quốc gia

Thủy điện Việt Nam một thời gian dài giữ vị trí quan trọng trong hệ thống điện. Các công trình thủy điện đã khai thác được khoảng 17.493MW, chiếm 22,39% tổng công suất lắp máy của toàn hệ thống điện quốc gia (khoảng 78.212MW). Lượng nước sử dụng để phát điện từ dung tích hữu ích của các hồ chứa thủy điện khoảng 14 tỷ m3.

Nếu xét về điện lượng từ thủy điện được phát trên hệ thống điện quốc gia, thì năm 1990, khi nguồn điện còn hết sức hạn chế, tổng sản lượng điện của hệ thống đạt khoảng 8,7 tỷ kWh, thủy điện đóng góp 5,4 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 62%. Đến năm 2000, sản lượng điện toàn hệ thống đạt 27,04 tỷ kWh, thủy điện cung cấp đến 14,537 tỷ kWh (chiếm tỷ trọng 54%). Tính đến cuối năm 2019, tổng công suất của toàn hệ thống đạt khoảng 56.000MW, trong đó tổng công suất của thủy điện đạt 21.000MW, chiếm tỷ lệ 37% so với cơ cấu nguồn điện toàn hệ thống.

Giai đoạn 2010-2020, điện thương phẩm tăng trưởng với tốc độ cao, từ 85,4 tỷ kWh năm 2010 lên khoảng 225,4 tỷ kWh vào năm 2020; tốc độ tăng trưởng bình quân 9,77%/năm, gấp khoảng 1,6 lần so tăng trưởng GDP. Sang đến năm 2022, sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống sáu tháng đầu năm đạt 133,11 tỷ kWh, tăng 3,8% so với cùng kỳ, trong đó, sản lượng thủy điện huy động đạt 41,58 tỷ kWh, chiếm 31,2%.

Nêu một vài con số như vậy để thấy rằng, tuy đã có nhiều thay đổi về cơ cấu nguồn điện và đa dạng hóa thành phần cung cấp nguồn điện với nhiều nguồn mới được bổ sung như năng lượng tái tạo, nhiệt điện khí, và tới đây có thể cả điện hạt nhân..., nhưng nguồn thủy điện vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp điện cho hệ thống, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đặc biệt là các vùng còn khó khăn như Tây Bắc, miền trung và Tây Nguyên, cũng như góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, hội nhập quốc tế.

Nếu căn cứ dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2045 (Quy hoạch Điện VIII), tỷ lệ thủy điện trong cơ cấu nguồn điện sẽ giảm dần theo thời gian, chiếm 18% (đến năm 2030) và 9% (vào năm 2045). Đương nhiên, xu thế này là tất yếu vì nguồn thủy điện đã khai thác tới hạn (cụ thể các nhà máy thủy điện có công suất từ 50MW trở lên cơ bản đã được xây dựng và đưa vào vận hành, khoảng 500 công trình thủy điện nhỏ có quy mô công suất từ 1-30MW đã đưa vào vận hành và đang xây dựng với tổng công suất khoảng 5.700MW, chỉ còn một số các công trình thủy điện nhỏ đang tiếp tục được nghiên cứu để phát triển nhưng tổng công suất đặt không lớn). Do vậy, để đáp ứng nhu cầu phụ tải tăng cao, ngoài nhiệt điện than và nhiệt điện khí, còn có điện gió, điện mặt trời đang được phát triển mạnh.

Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đến nay công suất các nguồn điện hiện có trong hệ thống đã lên tới 78.121MW, trong đó, riêng công suất của điện mặt trời các loại là 13.030MW, chiếm 21,21%. Như vậy, chỉ riêng năm 2020 công suất điện mặt trời đã tăng gấp ba lần so thời điểm đến cuối năm 2019, vượt xa tỷ lệ trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII là 14% vào năm 2030 và 20% vào năm 2045 trong cơ cấu nguồn điện của toàn hệ thống. Tuy nhiên, các nhà máy điện mặt trời lại không thể phát công suất khi không có ánh sáng mặt trời, các turbine gió không thể quay khi không có gió, làm thiếu hụt một lượng lớn công suất trên lưới điện quốc gia. Vì thế, với đặc điểm linh hoạt trong vận hành, vai trò thủy điện trong việc phủ đỉnh phụ tải vẫn là thế mạnh không thể thay thế được so các nguồn điện khác. Như vậy, nhiệm vụ phát điện của thủy điện trong hệ thống điện quốc gia từ chỗ tham gia chạy đáy, chạy lưng và phủ đỉnh trong biểu đồ phụ tải thì nay đang được chuyển dịch dần sang chế độ phủ đỉnh. Nhờ giúp dự phòng công suất phát, ổn định hệ thống, điều chỉnh tần số, thủy điện là công cụ giúp điều độ hệ thống điện quốc gia vận hành ổn định, an toàn, tin cậy.

Để tăng thêm nguồn thủy điện phủ đỉnh hiệu quả, EVN đã nghiên cứu lập quy hoạch thủy điện tích năng và xem xét mở rộng công suất một số nhà máy thủy điện có hồ chứa điều tiết nhiều năm như: Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Ialy, Thủy điện Trị An...

Góp phần quan trọng phát triển cơ sở hạ tầng và ổn định hệ thống

Thủy điện còn có tiềm năng rất lớn trong việc cải thiện công bằng xã hội trong suốt thời gian dự án được triển khai và quản lý theo cách thức đẩy mạnh sự công bằng giữa các thế hệ hiện tại và tương lai, giữa các cộng đồng bản địa và trong khu vực, giữa các nhóm bị thiệt hại và toàn xã hội nói chung. Do chi phí đầu tư ban đầu cao cho các nhà máy thủy điện đã được các thế hệ hiện tại trang trải, nên các thế hệ tương lai sẽ nhận được nguồn điện trong thời gian dài với chi phí bảo trì rất thấp.

Doanh thu của các nhà máy thủy điện thường "gánh thêm" phần chi phí cho các ngành sử dụng nước khác như: nước sinh hoạt, tưới và chống lũ, do vậy nó trở thành công cụ để chia sẻ nguồn tài nguyên chung một cách công bằng. Các dự án thủy điện còn có thể là một công cụ để thúc đẩy sự công bằng giữa các nhóm người bị thiệt hại và toàn xã hội nói chung. Khi quản lý tốt những chương trình di dân và tái định cư, lợi nhuận được chia sẻ để bảo đảm những người bị thiệt hại sẽ có cuộc sống tốt hơn sau khi dự án hoàn thành so với trước kia.

Chế độ làm việc của nhà máy thủy điện phụ thuộc vào nguồn nước đến, mức độ phụ thuộc tùy vào khả năng điều tiết của hồ chứa. Chi phí vận hành của thủy điện ít hơn nhiều so với nhiệt điện, do đó, giá thành sản xuất thấp (thấp nhất trong các nguồn điện ở Việt Nam), góp phần giảm giá thành phát điện của hệ thống. Cũng do giá thành của thủy điện rẻ, điều tiết hợp lý giá điện, tạo ra nhiều công việc và thu nhập cho lực lượng lao động trên cả nước, đóng góp đáng kể cho ngân sách...

Nhìn chung, hệ thống điện nước ta tuy đã có thay đổi nhiều về cơ cấu nguồn và đa dạng hóa các nguồn cung nhưng nguồn thủy điện vẫn hết sức quan trọng trong việc cung cấp điện, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Khi hệ thống điện tích hợp nguồn năng lượng tái tạo ngày càng tăng, vai trò của nguồn thủy điện lại càng trở nên quan trọng hơn, giúp cho hệ thống điện vận hành ổn định, tin cậy và an toàn. Đồng thời, góp phần thực hiện chuyển đổi năng lượng xanh, năng lượng sạch, giảm các nguồn điện phát thải CO2 và thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam tại Hội nghị COP26, đưa mức phát thải ròng về "0" vào năm 2050.

Phát triển thủy điện và năng lượng tái tạo chính là phát huy và tận dụng tiềm năng sẵn có của đất nước, giảm bớt sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, nhất là khi cuộc xung đột Nga-Ukraine xảy ra từ ngày 24/2/2022 đã đẩy giá dầu và khí lên cao, qua đó cho thấy vấn đề an ninh năng lượng càng cần được đặc biệt quan tâm.

Trước năm 1975, Việt Nam có hai nhà máy thủy điện (NMTĐ) được xây dựng là Thác Bà và Đa Nhim. Sau năm 1975, để đáp ứng nhu cầu điện của nền kinh tế quốc dân, Việt Nam chủ trương tích cực phát triển thủy điện. Đến năm 1994, có bốn NMTĐ lớn: Thác Bà (120MW), Đa Nhim (160MW), Trị An (400MW) và Hòa Bình (1.920MW) và một số thủy điện nhỏ như Đrây H’linh (12MW), Thủy điện Vĩnh Sơn (66MW).

Đến năm 2015, tức sau 25 năm, thủy điện của Việt Nam đã đạt được tiêu chí ấn tượng với tổng công suất đặt là 15.993MW chiếm 41,50% tổng công suất đặt của toàn quốc (38.537MW) và điện năng là 56,113 tỷ kWh chiếm 34,15% sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu của toàn quốc (164,312 tỷ kWh) . Trong đó, phải kể đến các NMTĐ lớn như: Sơn La (2.400MW), Ialy (720MW), Sê San 3 (260MW), Hàm Thuận-Đa Mi (475MW), Tuyên Quang (342MW), Bản Vẽ (320MW), Bản Chát (220MW)...