Ngập ngừng một thoáng, vị khách bước qua cửa, đi thẳng đến chỗ có bộ sa-lông đệm mút cổ lỗ ông Quynh đang ngồi, chìa một bàn tay bắt tay ông Quynh: “Tui, Tư Bôn đây! Tư Bôn chiến xa trưởng quân đội Việt Nam cộng hòa. Chúng ta quen nhau vào cái ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, tức ngày 28 tháng 1 năm 1973. Eng Hai Quynh còn nhớ chứ?”. “Nếu anh không xưng tên, hẳn rằng tôi hãy còn ngờ ngợ - Quynh nói - bởi bây giờ trông anh khác quá. Mập lên. Da mặt có vẻ nhầu nhĩ nhưng đỏ đắn. Phong độ lắm. Nghe tin anh và gia đình định cư bên Mỹ?”. “Đúng zậy đấy, eng hai à. Được eng hai khen sức khỏe, tui mừng quá ta. Thực ra, sang bên ấy, chẳng có nghề ngỗng gì, tui chỉ sống bằng lương thất nghiệp thôi. Gặp lại mấy anh chị em trong ban nhạc cũ thời cùng hoạt động trong nước, máu nghệ sĩ nổi lên, tui có đi hát với họ mấy năm. Bây giờ già rồi, xin đứng sau hậu trường phục vụ cờ đèn kèn trống kiếm thêm, cũng được họ chấp nhận”.
Ngồi xuống sa-lông. Nhận chén trà nóng từ tay Quynh, nhấm nháp mấy ngụm, Tư Bôn nói tiếp: “Được cái, mấy anh mấy chị trong ban nhạc cũ cũng thương, cho nên Tết này được nhà nước mời ban nhạc về nước biểu diễn, anh chị em cho tui đi cùng”. “Vậy chứ, chị Sáu Hương, vợ anh và các cháu có về cùng không?”. “Mọi người về quê trong nam, qua Tết mới ra cùng ban nhạc. Việc của tui không nặng lắm trong các sô diễn, nên tui xin ra bắc trước, với mục đích đón một cái Tết Hà Nội. Đêm qua tui đón giao thừa ở khách sạn, không phải khách sạn sang nhất Hà Nội, nhưng rất tuyệt vời. Và sáng nay thì tui đến eng. Tui có phải là người xông đất không zậy?”. “Vâng đúng, anh là người xông đất. Tôi rất vui về cuộc viếng thăm này, bởi tôi không nghĩ sẽ có ngày còn gặp lại anh, Tư Bôn ạ”.
Hai đứa con, một trai một gái đã thành gia thất có nhà riêng cả. Căn nhà cổ trong khu phố cổ này chỉ còn hai vợ chồng ông Quynh ở. Lúc này ông Quynh mới để ý từ lúc Tư Bôn vào, bà Nga, vợ ông sau khi chào khách, đã lui vào phòng bên trong. Quynh gọi vợ: “Này mình ơi, ra đây đi. Anh Tư Bôn đây là vị khách đặc biệt của tôi. Mình sắp cho chúng tôi mấy món nhắm rượu đặc trưng Hà Nội nhé”.
Thực ra thức ăn ngày Tết đã được làm sẵn. Bà Nga săm sắn vào gian trong một nhoáng đã bưng ra mâm cỗ với những giò lụa, chả cốm, nem rán, bóng lợn nấu măng... Ông Quynh lấy ra chai rượu nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng do đứa em họ dưới quê gửi lên, rót ra hai cái chén. Ông nâng chén chúc Tư Bôn, rồi họ vừa ăn vừa ôn lại chuyện cũ. Bà Nga không biết uống rượu, nhưng bà ngồi hầu rượu và nghe chuyện của hai người đàn ông rất nhiệt tình.
Cái ngày 28 tháng 1 năm 1973 đáng nhớ ấy, ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực. Trước cái giờ khắc lịch sử đó là một đêm khủng khiếp và dài nhất trong đời những người lính cả hai phía. Đại đội bộ binh cơ giới của ta phải đối đầu với một tiểu đoàn thủy quân lục chiến bên “quốc gia”. Tiểu đội hỏa lực do trung sĩ Quynh làm tiểu đội trưởng chốt ở một vị trí hiểm yếu, gần sát với hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa nơi đồn trú của phía bên kia với đất trồng trọt của dân. Đánh nhau đến gần sáng, đạn dược vơi cạn, Quynh ra lệnh cho các chiến sĩ phụ trách 12 ly 7 phải tiết kiệm đạn, nhằm thật chắc mục tiêu mới điểm xạ từng loạt ngắn. Chỗ chúng co cụm thì đành phải dùng đến súng chống tăng B40, B41, tuy hơi tốn kém, nhưng không còn cách nào khác. Hỏa lực bên quân “quốc gia” mạnh hơn gấp bội. Trên trời thì A37, OV1O lượn vè vè bắn rốc-két, thả pháo sáng. Từ hướng biển Cửa Việt, tuần dương hạm của chúng câu đại pháo vào. Từ hướng nam chúng nã đến đủ thứ pháo bầy, pháo khoan, cối cá nhân M79, cối 106,7. Đất bị cày đi xới lại tơi ra như nhào bột. Đại đội bên ta hy sinh lên tới vài chục mạng. Tiểu đội hỏa lực của Quynh hy sinh ba người cùng với khẩu 12 ly 7 bị vặn vỏ đỗ. Tổ tải thương đã đưa liệt sĩ về tuyến sau chôn cất. Hai chiến sĩ khác bị thương nặng phải đưa về trạm phẫu cấp trung đoàn. Còn sống là tiểu đội trưởng Quynh và ba người lính nữa, đó là Mùi - tay súng B40, Vinh - tay súng B41; Nhã giữ khẩu AR15 chiến lợi phẩm. Khẩu AK báng gấp của Quynh thì vẫn trung thành với anh từ ngày đầu chiến dịch đến giờ.
Đúng 8 giờ sáng, Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, các loại súng đì đùng đì đọp thêm mấy phát rồi im hẳn. Quynh và ba chiến sĩ ôm những lá cờ giải phóng được phát sẵn xông lên cắm dưới chân hàng rào kẽm gai. Phía bên kia hàng rào, những người lính “quốc gia” cũng chạy đến cắm những lá cờ ba sọc. Bỗng nhiên có một chiếc xe M113 từ phía “quốc gia” xông lên đâm thủng hàng rào, tiến sang lãnh địa của ta. Hạ sĩ Vinh đang tựa lưng vào thành hầm tranh thủ ngủ sau một đêm thức trắng, nghe tiếng xe gầm giật mình tỉnh dậy vội nâng khẩu B41 đã nạp đạn sẵn bắn một phát chỉ thiên cảnh cáo. Quynh vội giơ tay ngăn lại: “Đừng bắn nữa! Chúng ta có thể hy sinh chứ quyết không vi phạm hiệp định!”.
Chiếc M113 dừng lại. Lần lượt nhảy ra khỏi xe là năm người lính mặc đồ rằn ri, mặt mũi trông rất “hầm hố”. Người đi đầu đeo hàm thượng sĩ. Bốn người đi sau, kẻ trung sĩ, kẻ hạ sĩ. Họ bước thành hàng, tiến thẳng về phía công sự của tiểu đội hỏa lực bên ta. Quynh nói to: “Các ông đã vi phạm hiệp định, lấn sang đất của chúng tôi! Các ông muốn gì?”.
Viên thượng sĩ, là người chỉ huy, cho dù khói lửa chiến trường bầm giập vẫn không làm y mất hẳn vẻ bảnh trai, giơ tay vẫy vẫy, nói: “Chúng tui sang thăm mấy eng, muốn biết con người các eng được cấu tạo kiểu gì, ăn nhậu những món chi mà đánh chác dữ dằn quá zậy! Chúng tui phải đi bằng xe cơ giới cho tiện! Nếu mấy eng cho rằng chiếc xe đã xâm phạm lãnh địa thì hãy giữ lấy nó làm kỷ niệm - y nhìn lướt gương mặt ám khói của bốn người lính quân giải phóng, nói tiếp - Mà trông mấy eng ai cũng hiền khô à!”.
Anh ta rút bao thuốc Ruby quân tiếp vụ mời mỗi người lính bên ta một điếu. Sau ít phút dè dặt, đề phòng của cả hai bên, viên thượng sĩ bảo mấy tên lính đi cùng lấy mấy tấm vải dù trải xuống đất, bày ra mấy gói bánh kẹo, mấy chai nước mang nhãn hiệu USA. Y sẵng giọng: Đánh nhau mãi ớn thấy mồ rồi! Ngồi cả xuống mừng cho cuộc đoàn viên đi mấy eng!”.
Quynh cùng ba người lính ngồi xuống. Quynh nhón một chiếc kẹo cho vào miệng. Mở một chai nước uống mấy ngụm. Hẳn vì đói lâu ngày, vị kẹo và vị nước có sâm ngọt mát nhanh chóng tan chảy trong từng mạch máu khiến anh tỉnh táo hẳn.
Một người lính “quốc gia” nói: “ Đêm qua, tụi tui hành quân từ cứ về, trườn đến chân đồi, trời tối quá, xe chúi đầu xuống một cái hố. Tui ngồi trên tháp pháo, nhìn sang xung quanh nhận thấy có nhiều cái hố như thế nằm cạnh nhau. Có phải mấy eng đào huyệt trước cho mình không?”. “Đúng thế” - Quynh đáp – “Những trận trước lính tráng chết nhiều quá, quân lực trung đoàn chôn không kịp, thành ra chôn ẩu. Chôn đêm, sáng ra xem thấy có ngôi mộ chân người chết còn thò lên khỏi mặt đất. Chiều qua, trước lúc xuất quân, tụi này nói với đám quân lực rằng, xin các bố hãy cứ đào sẵn cho chúng tôi mỗi đứa một cái huyệt. Trận này là trận huyết chiến cuối cùng trước khi Hiệp định Pa-ri có hiệu lực. Nếu chúng tôi hy sinh thì cũng phải được nằm xuống ngôi huyệt mộ đàng hoàng! Đám quân lực nói: “Làm thế thì rất nhàn cho chúng tôi. Nhưng khổ nỗi, bọn lính mới mà nhìn thấy, chúng bị mất tinh thần chiến đấu, không được đâu!”. Tôi nảy ra sáng kiến: “Thì đào ở nhiều nơi, mỗi nơi khoảng hai chục huyệt thôi”. Đám quân lực tóm ngay lấy sáng kiến đó. Họ đào sẵn hàng chục khu huyệt mộ phía sau nơi trú quân của trung đoàn! Trận đêm qua quần nhau với phía bên ấy, bên tôi hy sinh khá nhiều, số huyệt mộ đào sẵn hẳn đã kín người nằm… “Chỉ một việc dám đào huyệt sẵn cho mình cũng đủ thấy cái bản lĩnh sắt đá của các eng - viên thượng sĩ “quốc gia” nói - Nhưng thôi, nghe những chuyện chết chóc, mồ mả lúc này không hợp, ta nói chuyện khác đi!”.
Binh nhất Nhã dựng cây AR15 ngả vào vai, chỉ tay về phía Quynh, nói: “Tiểu đội trưởng của chúng tôi đây đang học khoa văn đại học tổng hợp thì đi bộ đội, anh ấy có nhiều chuyện hay lắm đấy”.
Một người lính “quốc gia” nói: “Học đại học sao phải làm tiểu đội trưởng? Bên quốc gia mà học cao như thế sẽ được đi tu nghiệp trường võ bị Đà Lạt để trở thành sĩ quan liền à! Như eng Bôn, chiến xa trưởng của tụi tui đây, vốn gia nhập đoàn văn nghệ Thiên Nga ra chiến trường phục vụ liên quân theo mùa vụ, chiến dịch. Bỗng thượng cấp phát hiện eng ấy đã tốt nghiệp đại học văn khoa Sài Gòn, liền tóm lấy cho lên Đà Lạt tu nghiệp sĩ quan. Eng Bôn mới cưới vợ, không chịu được cảnh chia ly, liền bỏ trốn về Sài Gòn. Rồi bị bắt lại, bị phạt, chỉ cho làm chiến xa trưởng, ra chiến trường!”…
(Còn nữa)