Nói về những quy định liên quan đến “đánh giá tác động môi trường (ĐTM)”, theo tôi, bất cập lớn nhất hiện nay chính là tồn tại những quy định một cách “ôm đồm” về nội dung của ĐTM. Vốn là bộ môn khoa học chỉ có thể dự báo được các tác động của dự án đến môi trường tự nhiên, nay ĐTM còn phải ôm thêm việc dự báo các tác động vốn không phải “sở trường” của nó, như: tác động đến xã hội (là nhiệm vụ của bộ môn khoa học khác gọi là Đánh giá tác động xã hội - ĐTX), đến sức khỏe con người (là nhiệm vụ của bộ môn khác gọi là Đánh giá tác động sức khỏe - ĐTS); thậm chí phải dự báo cả các rủi ro, sự cố do dự án gây ra (là nhiệm vụ của bộ môn khoa học hoàn toàn khác gọi là Đánh giá rủi ro - ĐRR)… Đã vậy, các nguồn lực cho ĐTM của ta là quá khiêm tốn (riêng về kinh phí chỉ bằng 1% đến 10% so với mức trung bình của quốc tế) nên bất khả thi.
Do đó, tất cả các tác động và rủi ro/sự cố đã được dự báo một cách hời hợt, không đến nơi đến chốn (lẽ ra từng bộ môn ĐTM, ĐTX, ĐTS và ĐRR phải được làm một cách độc lập, chu đáo theo phương pháp luận khoa học riêng của mình thì mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra).
- Xin ông phân tích kỹ hơn về những nghịch lý trong các quy định hiện nay về ĐTM?
- Hiện nay chúng ta quy định ĐTM chỉ có một giai đoạn (bước) duy nhất, trong khi về mặt khách quan ĐTM đỏi hỏi nhiều giai đoạn khác nhau, từ sơ bộ đến các mức chi tiết hơn tùy theo các giai đoạn của dự án đầu tư. Hệ lụy là ĐTM của chúng ta chỉ có thể làm được ở mức sơ bộ và không đủ căn cứ cần thiết về môi trường để quyết định đầu tư cho phù hợp nhưng vẫn cứ phải quyết, dần dà làm cho nhiều người, nhiều cấp đã lầm tưởng rằng ĐTM chỉ là hình thức.
Nghịch lý nữa, dù ĐTM mới chỉ đạt được mức sơ bộ nhưng lại được quy định là căn cứ gần như duy nhất để quản lý, kiểm soát môi trường trong suốt quá trình triển khai dự án và “cả đời” của một cơ sở sản xuất/kinh doanh/dịch vụ (sau dự án).
Trong khi chúng ta chưa có quy định về việc cơ quan quản lý cung cấp đủ cơ sở thông tin, dữ liệu cần thiết về tình trạng môi trường trong thời điểm hiện tại và dự báo cho các thời kỳ khác nhau trong tương lai, thì lại bắt các nhà đầu tư phải tự làm việc này khi tiến hành ĐTM. Đây là điều không tưởng, bởi vì, cho dù nhà đầu tư có “vô số” tiền của cũng không thể làm được trong khoảng thời gian nhất định do tính đặc thù của thông tin, dữ liệu về môi trường. Hệ lụy là nhà đầu tư (hoặc tư vấn được thuê) chỉ có thể tự đo đạc hoặc lấy được dăm ba mẫu một cách “ngẫu hứng” trong một vài ngày để đánh giá tình trạng hiện tại và dự báo tình trạng trong tương lai của môi trường, vậy làm sao có độ tin cậy? Làm sao các nhà thẩm định ĐTM có đủ cơ sở để phản bác một cách “tâm phục, khẩu phục”?
Ngoài ra, còn có rất nhiều các bất cập không nhỏ khác, chẳng hạn: chưa có quy định về cách tiếp cận tổng hợp trong ĐTM (thí dụ, bắt buộc dự án có sau phải đánh giá tổng hợp tác động của mình với tác động của tất cả các dự án và cơ sở có liên quan đã có trước); Chưa có cơ chế và quy định về hợp tác với các nước xung quanh để tiến hành ĐTM xuyên biên giới; Chưa có quy định về việc phải hài hòa hóa ĐTM với phía quốc tế như đã ký kết trong “Cam kết/Tuyên bố Hà Nội năm 2006” v.v…Đấy là còn chưa nói đến tình trạng “ông chẳng, bà chuộc” liên quan đến ĐTM giữa văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) và các lĩnh vực khác có liên quan, thí dụ, giữa Luật BVMT 2005 với Luật Đầu tư 2005 (cùng được Quốc hội thông qua ngày 29-11-2005), giữa Luật BVMT 2014 với Luật Đầu tư 2014…
- Vì sao chúng ta đã có hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường, nhưng vẫn chưa đủ năng lực để quản lý vấn đề môi trường của các dự án, thưa ông?
- Chúng ta chỉ mới có hai loại quy chuẩn kỹ thuật, một là về chất lượng của môi trường xung quanh (chủ yếu là các thành phần môi trường vật lý); và hai là về chất lượng của chất thải (chủ yếu là về nước thải, khí thải; một mức độ nhất định là về tiếng ồn, chất thải rắn thông thường và chất thải nguy hại).Trong khi đó, về khoa học và thực tiễn đòi hỏi nhiều các quy chuẩn khác nữa như: quy chuẩn về môi trường sinh học (sinh vật, hệ sinh thái, đa dạng sinh học…); về xói mòn, sụt, lún, trượt, lở… đất; về xâm nhập mặn, xâm nhập phèn; về dự hạ thấp mực nước mặt, nước ngầm v.v…).
Riêng việc xây dựng và ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về chất thải đã không căn cứ vào sức chịu tải của môi trường tiếp nhận cụ thể ở từng nơi, thậm chí đã có tình trạng “sao chép” từ nước ngoài vào Việt Nam một cách không tương thích. Thí dụ, đã ban hành hàng loạt các quy chuẩn về chất thải cho một số ngành được gọi là “đặc thù” (lỏng lẻo hơn nhiều so với các quy chuẩn thông thường), v.v… Hệ lụy là đã có biểu hiện và sẽ xảy ra tình trạng mọi chất thải đều được xử lý đạt quy chuẩn nhưng môi trường tiếp nhận ở đâu đó vẫn cứ sẽ bị ô nhiễm, bị suy thoái và sự cố môi trường vẫn cứ sẽ xảy ra.
- Để hóa giải những bất cập trên, theo ông việc xây dựng chính sách pháp luật về môi trường cần phải có những cải tiến như thế nào và bắt đầu từ đâu?
- Đã đến lúc các cơ quan quản lý nhà nước, Bộ ngành cùng các nhà làm luật phải ngồi với nhau lại. Cần bắt tay ngay vào việc rà soát, sửa đổi các chính sách, pháp luật có liên quan để khắc phục ngay những bất cập (trong đó có những bất cập mà tôi đã nêu trên đây) nhằm phòng tránh các trường hợp tương tự và quan trọng hơn là nhằm mục tiêu phát triển bền vững chung của đất nước, không đánh đổi môi trường lấy lợi ích kinh tế trước mắt. Chúng ta rất cần một cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các Bộ ngành ở Trung ương; giữa các Bộ ngành với địa phương, ngành dọc nếu không vấn đề quản lý bảo vệ môi trường sẽ không hiệu quả. Ngoài ra, còn rất cần một cơ chế hiệu quả để huy động sự tham gia của các bên khác có liên quan, như: các viện nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức phi chính phủ, các nhà khoa học, các cộng đồng dân cư (nhất là những người bị tác động bởi dự án), v.v…
- Xin cảm ơn ông!