Trộm rừng thành chủ rừng

Ðể làm khu rừng này cho ra tấm ra món phải có tiền tỷ, chí ít cũng phải bảy, tám trăm triệu đồng. Ấy vậy mà chúng cháu chỉ có 400 triệu đồng, cho nên cháu phải thế chấp nhà cho ngân hàng để vay 100 triệu đồng, nhờ anh chị em cho vay theo kiểu giúp đỡ được thêm 100 triệu nữa. Số tiền có được cháu đổ cả vào rừng.

Chuyện ngày xưa

Tại sảnh đón đại biểu từ vùng núi về dự hội nghị những người làm rừng giỏi của huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, anh Thắng cán bộ kiểm lâm huyện dán mắt nhìn Nguyễn Ngọc Hội từ đầu tới chân rồi lên giọng:

-  Này, tay trộm rừng có mỏ có sừng kia, tới đây làm gì?

-  Dạ. Anh 'triệu' thì em tới.

-  Không triệu. Ðây chỉ mời. Mời các ông bà chủ hết lòng với rừng thôi.

-  Thì mời nên em mới đến.

-  Nhưng mà... này... mày là... tên chuyên trộm rừng. Liệu có còn nhớ tao đã bắt, đã giữ mày bao nhiêu bận rồi không?

- Quên sao được. Nhưng anh ơi. Ấy là chuyện ngày xưa. Nay em tới báo công để chuộc tội. Không chấp nhận thì em về!

- Ðược đấy. Cứng cỏi lắm. Phương phi phát tướng, ra dáng một ông chủ cỡ bự!

Dứt lời, Thắng cười sảng khoái, giọng vồn vã thân tình:

- Chú Hội à. Nói cho vui thôi. Danh sách xã Quân Khê đưa về đây bốn người. Cậu là 'nhân vật' mình ấn tượng nhất. Chục năm nay, kể từ khi giao đất, giao rừng cho dân, mình ít trở lại Quân Khê nên cũng không gặp cậu. Nào ngờ cậu đổi đời, ăn nên làm ra như thế. Sau hội nghị, nhất định tớ sẽ lên thăm rừng của cậu. Chấp nhận chứ?

Hội nhào tới xiết chặt tay Thắng:

- Rất mong được đón tiếp anh tại trang trại của em!...

Ấy là cuộc thoại mà Nguyễn Ngọc Hội kể lại với tôi vào cuối tuần đầu tháng 3-2011, ngay tại trang trại của mình.

Cặm cụi chuốt từng chiếc lạt giang dẻo oặt để buộc lán nhốt vịt kề nơi bờ ao, nét mặt ngượng nghịu (không ai nghĩ Hội đã ở tuổi 41), giọng rỉ rả:

- Sớm xa quê, nhưng Quân Khê thì ông lạ gì nữa. Xưa, đất lâm nghiệp và rừng có tới hơn 400 ha, phía tây nam là ngọn núi Nả cao 1.300 m so với mặt biển. Thuở xưa dân cư thưa thớt, Quân Khê như một kho lâm sản ăm ắp đủ các loại gỗ, nứa, mây, song, chim chóc, hổ, báo, hươu, nai, lợn rừng... Nhưng rồi 'người đông của khó'. Rừng không chủ nên bị tàn phá trọi trơ tới đỉnh núi Thanh, núi Trưa xuyên sang tận đèo Quân, núi Giác... Sau đấy kiểm lâm tới lập trạm kiểm soát, hô hào nhân dân làm chủ tập thể, cũng chỉ cốt để giữ lấy rừng tái sinh. Cha chung chẳng ai thèm khóc. Ðói thì đầu gối phải bò... Cho nên anh Thắng bảo cháu là tên trộm rừng thì không sai, nhưng hơi quá lời. Nói đi thì cũng phải nói lại. Cháu là con thứ năm trong gia đình tới chín anh chị em. Tuổi 16 - 17 ăn như hùm đổ đó, lúc nào cũng đói queo đói quắt. Bởi thế sinh ra ở đất rừng chỉ còn cách lủi vào rừng chặt ngả cây cối làm củi chở ra phố Hiền bán lấy tiền đong gạo. Ngày nhiều cũng chỉ đủ mua mươi cân gạo. Hôm bị kiểm lâm giữ thì không chỉ cháu đói mà cả nhà cũng xỉu theo!...

Tự dưng đôi tròng mắt Hội ứa lệ, giọng ngắt quãng ngắt khoảng:

- Lạ lắm. Ngày ấy nghèo khổ, sao cháu thèm cơm đến vậy. Hễ bị kiểm lâm giữ là nhớ bữa, chỉ sợ chết đói nên tru tréo gọi bố gọi mẹ. Thương tình nên các anh ấy tha cho. Nhưng vì đói nên mấy ngày sau tật nào chứng ấy... lại lẻn vào rừng đốn củi. Ngẫm lại ngày xưa ấy mà xót lòng thương bố thương mẹ. Khi có bát ăn bát để thì mẹ đã già, cha đã vội về nơi chín suối.

Chủ rừng

Theo Nguyễn Ngọc Hội, tôi leo lên ngọn núi Thanh, núi Trưa nơi có mấy cây sồi gai cao vút, vòng thân cả người ôm còn xót lại sau một thời đua nhau tàn phá. Ðứng ở đây, xoay bốn phía đâu đâu cũng ngằn ngặt mầu xanh keo lai đã qua thì khép tán. Tựa vào thân cây keo song sóng cao vút, tôi hỏi:

- Sao Hội lại chọn khu rừng này làm nơi lập nghiệp?

Giọng bâng bâng:

- Năm 1995, Nhà nước có chủ trương giao đất giao rừng cho dân. Ngày ấy người dân Quân Khê đâu có say mê làm rừng như bây giờ. Xã phải hết hơi hết sức vận động, giải thích người ta mới nhận cho. Phần đông mỗi hộ chỉ kham vài ba ha. Dăm bảy hộ mạnh bạo nhận tới 10 ha. Khi ấy cháu nhận chín ha. Sau này được anh chị em trong nhà chuyển đổi nên cháu có thêm ba ha nữa. Vậy là cả thẩy cháu có tới 12 ha đất rừng. Ấy là chưa kể, suốt mấy năm qua chúng cháu vượt đất, đắp đập, làm ba, bốn cái ao tạo ra hai ha mặt nước để nuôi cá, nuôi vịt; khai hoang vỡ hóa chân khe chân dộc, tạo ra hơn một ha mặt bằng làm vườn trồng xoan xen chuối và sắn. Tổng cộng trang trại của cháu hiện thời có tới 15 ha, thực hiện nuôi trồng theo công thức R-A-V (rừng-ao-vườn)...

Ðưa tay quệt mồ hôi vã ra trên trán, mặt ửng hồng, giọng Hội nhỏ lại: - Cháu nhận khu rừng xa xôi hẻo lánh này cũng là vì đã quen với nó từ cái thuở từng là tên 'trộm rừng'. Thế thôi!

- Cháu đã làm như thế nào để nên rừng và trở thành chủ rừng như hôm nay?

Tôi hỏi, Hội đáp có ngọn có ngành:

- Những năm đầu hầu như tất cả các hộ nhận đất rừng nhưng không ai canh tác cho quy củ, chỉ trồng cấy lõm bõm để lấy củi. Mà dạo ấy có trồng cây nguyên liệu bán cho nhà máy giấy thì cũng chẳng lời lãi gì, vì đường sá xa xôi, lối vào rừng không có, phương tiện vận chuyển cũng không, tư thương mua bán theo kiểu bắt chẹt. Năm 1998, cháu trồng đại trà theo cách quảng canh đủ thứ cây nguyên liệu giấy như bạch đàn, bồ đề, keo lai, tre măng... rồi bỏ cho vợ con thỉnh thoảng nhòm ngó. Năm 2003, cháu sang Ma-lai-xi-a lái xe thuê cho chủ một công ty ở thủ đô Cu-la-lăm-pơ cốt đem tiền về thâm canh rừng. Bốn năm sau trở lại, rừng đến kỳ thu hoạch, hiềm nỗi có trồng nhưng không chăm bón nên thu vót vét cũng chỉ được 300 triệu đồng. Tiền làm thuê có được cháu cất ngôi nhà khá tươm tất cho mẹ và các con ở, rồi vợ chồng cháu vào dựng lán dưới chân núi này để quyết 'sống chết' với rừng. Khốn nỗi, mộng làm giàu thì lớn, nhưng lưng vốn lại quá mỏng. Mỗi đợt, mỗi kỳ chăm bón như thế đều phải chi cả chục triệu đồng thuê mướn lao động từng quen công quen việc. Bởi thế rừng của cháu mới lớn đều tăm tắp như thế này. Kể từ khi đặt bầu tới nay vừa tròn ba năm, cây keo của cháu đã có đường kính gốc tới 10 cm, cao hơn 10 m. Mấy ngày gần đây người ta đồn đại cháu khó khăn vì vay mượn nhiều nên thương lái tới đo dò trả tỷ mốt, tỷ hai cho cả khu rừng. Gọi là đồn đại chứ thực ra cháu cũng khó khăn thật. Nguồn thu duy nhất của cháu lúc này là 400 con vịt đẻ, lời lãi mỗi ngày cũng chỉ vài trăm nghìn đồng. Giàu có thì vẫn ở phía trước. Nhưng cứ nhìn lên rừng thấy rừng ngằn ngặt xanh như thế kia là vui lắm rồi!

Ngước mắt nhìn cánh rừng bên phía bờ ao, Hội nói như cắt chỉ:

- Rút kinh nghiệm để đỡ căng khi thời vụ gieo trồng cũng như thu hoạch, cháu sẽ chia rừng làm ba khoảnh; khoảnh nọ trồng dãn cách thời gian với khoảnh kia một năm. Ðể tăng thêm thu nhập ngay từ rừng, tạo việc làm cho người lao động, cho dân địa phương tiêu thụ sản phẩm tại chỗ, cháu đang bắt tay lập xưởng  bóc gỗ với hai máy loại xịn ngay tại chân rừng này!...

Trước lúc chia tay, nâng ly rượu quê trong gian lán bên rìa núi bốn bề gió lộng, tôi hỏi Nguyễn Ngọc Hội:

- Thành chủ rừng ở xứ sở này, điều gì là quan trọng nhất? Lời chắt lọc, như đong như đếm, Hội bảo:

- Phải kiên trì. Làm rừng không phải thứ ăn ngay. Trồng cấy phải theo khoa học. Giống má phải tốt. Lợi ích của mình phải đặt trong lợi ích chung. Nghĩa là lợi ích của mình phải chứa đựng lợi ích của xã hội. Các thành viên làm rừng trong xã cũng như khu vực phải gắn bện với nhau...

Nào những lời thô mộc ấy cùng những cánh rừng ngằn ngặt xanh của Nguyễn Ngọc Hội ở xã Quân Khê cứ miết mải theo tôi đến tận bây giờ.