Thao thức với sông thơ

Không “cao đàm, khoát luận” trong các hội thảo hay trước các diễn đàn nhưng lại thể hiện sự sôi nổi, đằm sâu và triết lý nhân sinh trong từng bài thơ và công trình lý luận phê bình văn học. Đó dường như là phong cách của GS, NGND Mã Giang Lân (nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại), Khoa Văn học, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
GS Mã Giang Lân nhận giải A 2023 của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.
GS Mã Giang Lân nhận giải A 2023 của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

1/Năm 1972, khi chúng tôi mới vào học Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (trước đây) thì anh Mã Giang Lân đã ở lại trường công tác được mấy năm rồi. Tên tuổi anh càng gây sự chú ý trong lớp sinh viên mới chúng tôi khi biết anh tên thật là Lê Văn Lân, sinh ra ở vùng quê Nam Ngạn sát bờ sông Mã (Thanh Hóa), bởi quá yêu quê hương mà anh lấy bút danh Mã Giang Lân.

Năm 1969 trong cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ, Mã Giang Lân đoạt giải ba với hai bài “Trụ cầu Hàm Rồng” và “Bình minh trên sông”; năm đó nhà thơ Phạm Tiến Duật giành giải nhất với chùm bốn bài “Lửa đèn”, “Tiểu đội xe không kính”, “Gửi em cô thanh niên xung phong” và “Nhớ”. Gần 50 năm gắn bó với hoạt động giảng dạy, nghiên cứu lý luận và sáng tạo văn chương, sáng tác của GS Mã Giang Lân tuy có lúc gián đoạn nhưng xuyên suốt vẫn có sự liền mạch trong cảm xúc và suy tư. Đến nay ông đã xuất bản một số tập thơ như “Bình minh và tiếng sóng” (1975), “Hoa và dòng sông” (1979), “Một tình yêu như thế” (1990), “Những mảnh vỡ tiềm thức” (2009), “Về một cây cầu” (2010), “Những lớp sóng ngôn từ” (2013), “Phía sau tưởng tượng” (2017), “Ngẫm nghĩ chiều” (2021).

2/Có thể nói với tư cách nhà thơ, Mã Giang Lân đã gây được ấn tượng với bạn đọc trong buổi đầu cầm bút. Bởi ngay tập thơ đầu tay “Bình minh và tiếng sóng”, tác giả đã phác thảo bức tranh hiện thực về cuộc chiến đấu ngoan cường của các lực lượng bộ đội, dân quân bên cầu Hàm Rồng trên quê hương Nam Ngạn anh hùng chống trả những đợt oanh tạc dã man của không quân Mỹ. Bốn bề lửa khói ác liệt là thế, nhưng “Chiếc khăn đỏ vừa cởi ra trên mâm pháo/Phút thiêng liêng thoắt cái hóa nên cờ/Mới từ giã tuổi thơ/Đã lẫm liệt đương đầu với đạn bom khói lửa” (Hàm Rồng). Gian khổ, hiểm nguy, thậm chí cận kề cái chết “Người bom vùi từ hố đất ngoi lên/Người từ nhà đổ của mình chạy tới”. Thậm chí phải đối mặt với “bom tấn ép bẻ cong cột sắt” nhưng họ vẫn bền gan chiến đấu, nhằm giữ cho cầu Hàm Rồng trụ vững, hiên ngang in bóng trên dòng sông Mã thân thương...

Tuổi sáu, bảy mươi bên cạnh những công trình chuyên khảo, chuyên luận dài hơi, GS Mã Giang Lân vẫn lặng lẽ và phiêu lãng trong sáng tạo thơ ca với các tên gọi và dung lượng khác nhau “Những mảnh vỡ tiềm thức”, “Phía sau tưởng tượng”, “Những lớp sóng ngôn từ”, “Ngẫm nghĩ chiều”.

3/Gắn bó với sáng tác thơ, nhưng GS Mã Giang Lân cũng nặng nghiệp với hoạt động nghiên cứu lý luận phê bình thơ ca. Hơn 50 năm qua, song hành công tác giảng dạy, GS Lân đã cho ra mắt khoảng gần 40 đầu sách cả soạn chung và đứng riêng. Đáng chú ý trong số viết riêng phải kể đến một số công trình tiêu biểu như “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954”, “Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 - 1945”, “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam”, “Thơ - hình thành và tiếp nhận”, “Những cấu trúc của thơ”, “Thơ - quan niệm và những sắc thái thẩm mỹ” (đoạt Giải A của Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật trung ương năm 2023), “Mã Giang Lân - Tuyển tập nghiên cứu phê bình” (3 tập)...

Khảo sát, nghiên cứu thơ ca dân tộc một cách có hệ thống, nên khi bàn về thơ mới và phong trào thơ mới, ông cho rằng lâu nay ta có quan niệm phong trào Thơ mới xuất hiện đầu những năm 30 và phát triển ở đỉnh cao 1932 - 1942. Nhưng thực ra nó đã có nền móng từ 1907 khi trên tờ báo “Lục tỉnh tân văn” đã đăng các bài thơ mà xúc cảm, ngôn ngữ thơ như phá vỡ khuôn khổ của câu thơ cũ, sự gò bó của bài thơ theo niêm luật. Từ những năm 1914 đến 1925, Nguyễn Văn Vĩnh và một số người am hiểu văn chương đã dịch nhiều bài thơ của Hugo, Lamartine, Verlaine... đăng trên Đông Dương tạp chí và các báo khác cho thấy những tư tưởng mới, cảm xúc mới và cách thể hiện mới. Đến giai đoạn 1932 - 1942, phong trào thơ mới phát triển rầm rộ cũng là sự kế thừa những giá trị tinh thần và ý tưởng đổi mới thơ ca của nhiều năm trước mà thôi.

Hay trong công trình “Thơ - Hình thành và tiếp nhận”, GS Mã Giang Lân tập trung việc phân định ranh giới giữa thơ và các thể loại khác gần với thơ. Thí dụ như phân định giữa sử thi và trường ca, truyện thơ và trường ca, rồi trường ca và thơ dài; Mã Giang Lân cho rằng, giữa chúng có những tương đồng, khác biệt và cả sự giao thoa giữa các thể loại. Có thể xem đây là một phát hiện, khi ông nêu luận điểm: Trường ca ra đời trên cái nôi của trữ tình, truyện thơ và trường ca có dung lượng lớn, nhưng ở truyện thơ có vai trò của cốt truyện, nhân vật và lối kể chuyện ở ngôi thứ ba. Trường ca thường có kết cấu rõ ràng, hoàn chỉnh, có nhân vật chứa đựng tâm trạng, hành động, còn ở thơ dài nhân vật chỉ là cái cớ để nhà thơ chuyển tải chủ đề và dẫn dắt mạch cảm xúc...

Tuổi đã ngoại “bát tuần” nhưng thỉnh thoảng ông vẫn có những chùm thơ đăng trên báo này, báo khác và chưa ngơi nghỉ nghiên cứu. Đúng như tên một cuốn sách, tập hợp những bài viết của bạn bè và học trò làm tặng GS Mã Giang Lân nhân kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam năm 2023 bởi ông vẫn “Thao thức với sông thơ” .

Hành trình hơn nửa thế kỷ gắn bó với sáng tác và chuyên tâm nghiên cứu thơ ca, cụm công trình Thơ Việt Nam hiện đại của GS Mã Giang Lân gồm “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam”, “Thơ - Hình thành và tiếp nhận”, “Văn học hiện đại Việt Nam - Vấn đề - Tác giả” và “Những cấu trúc của thơ” đã được trao Giải thưởng Nhà nước năm 2021. Giới nghiên cứu, phê bình cho rằng, đây là cụm công trình thể hiện sự đam mê, tâm huyết đã bao quát và có tính hệ thống về cả một thế kỷ phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.