Tiếng trống gọi mùa ban

Tâm lý chung nhiều người khi đã đến một nơi rồi, lần trở lại thường không còn háo hức lắm.

Minh họa: NGUYỄN MINH
Minh họa: NGUYỄN MINH

Nhưng với Trường thì khác, mỗi khi nhắc đến địa danh ấy trong anh lại trào lên thứ cảm xúc lạ lùng, như thể luôn có một sợi dây vô hình kéo anh về phía những ký ức chưa từng được chạm tới. Anh không lý giải được vì sao, chỉ biết rằng, mỗi lần trở lại Điện Biên, tim anh lại rung lên.

Thời đại học, Trường có đứa bạn cùng lớp tên Ly quê ở Him Lam. Mỗi dịp tụ tập, Ly say sưa kể chuyện hoa ban, nào xôi tím mẹ ủ trong ếp nóng hổi thơm lừng, nào món nộm thanh mát chế biến từ những cánh ban non khiến đám sinh viên thèm rỏ rãi. Từ lâu, hình ảnh hoa ban, cô gái Thái dịu dàng bó thân áo cóm sát eo vẫn là cái gì đó xốn xang tâm hồn Trường. Chả thế mỗi khi đọc, xem thông tin nào đó về vùng đất lịch sử, đầu anh lại vang lên câu thơ của Trần Mạnh Hảo:

“Hoa ban nở thành người con gái Thái

Đám mây bay trong thau nước gội đầu”.

Không biết có phải những điều ấy đã gieo vào tâm trí Trường những tình cảm đặc biệt cho vùng đất này chăng? Cũng chưa hẳn, bởi hoa ban, hay thi ca mà sâu xa hơn, Điện Biên đã ám ảnh anh từ lâu qua đôi mắt bà nội…

Dịp này, công ty tổ chức chuyến du lịch về nguồn, anh vui lắm, lấy điện thoại gọi ngay cho Linh, cô bạn gái phóng viên. Đầu dây bên kia, Linh thoáng do dự, “Điện Biên á? Giờ người ta đi biển, hoặc lên núi nghỉ dưỡng homestay, chụp ảnh với ngắm mây. Còn Điện Biên thì… ngoài mấy điều đã đọc trong sách báo, có gì mới đâu anh?”. Câu trả lời khiến anh chùng xuống. Rốt cuộc, Linh vẫn nhận lời, có lẽ vì chiều anh. Trường tự nhủ, đến đấy, Linh sẽ hiểu.

*

Buổi sớm Điện Biên mờ sương, hoa ban trắng rắc đầy hai bên đường dẫn vào Nghĩa trang A1. Đoàn dừng lại trước bạt ngàn mộ chí. Bất giác, ngực Trường rung lên, như có tiếng trống từ lòng đất vọng về. Anh đưa tay chạm vào tấm bia đá lạnh và ngay khoảnh khắc ấy, một nhịp thôi thúc mơ hồ dội lên trong lòng, vừa như lời gọi, vừa như tiếng trống giục không biết từ đâu.

Anh bước chầm chậm, tay nhè nhẹ chạm lên từng dòng tên. Một cảm giác dâng trào, vừa xa lạ, vừa thân quen, như thể anh đã từng đi qua nơi này trong ký ức. Mắt nhắm nghiền, Trường thấy ùa về những bài học lịch sử thuở nào. Nhưng lần này, lịch sử không còn là con chữ, mà là hơi thở ngay trước mắt.

…Đồi A1 sừng sững giữa thung lũng Mường Thanh, như cánh cửa cuối cùng che chắn cho sở chỉ huy của tướng Đờ Cát. Gần sáu mươi ngày đêm, bao nhiêu đợt tấn công của bộ đội ta tràn lên giữa mưa bom bão đạn. Đất đỏ chiến hào thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt. Có những chiến sĩ vừa tròn mười tám, đôi mắt còn trong veo, vậy mà sẵn sàng lao mình vào lửa đạn…

Như có tiếng trống vọng về làm Trường chững lại. Anh lắng nghe và nhận ra, đó chỉ là tiếng gió rít qua rừng cây, hòa lẫn vào tiếng lá xào xạc, tạo thành âm vang mơ hồ như ảo ảnh. “Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia A1, nơi yên nghỉ của hơn sáu trăm liệt sĩ, phần lớn là vô danh, hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ...”, Nghĩa, chàng hướng dẫn viên có giọng trầm ấm giới thiệu. Những vệt chiến hào xưa loang lổ còn in rõ trên đất, khiến tim anh đập dồn dập, như nghe đâu đó tiếng gọi vọng lên từ đất.

Đang mải với những hồi tưởng lịch sử, suýt anh va vào một ông già tóc bạc, ngực đeo lấp lánh những huy chương. Ông chống gậy, bước chậm rãi, mắt nhìn về phía đoàn. Thấy anh lúng túng xin lỗi, ông gật nhẹ, chậm rãi hỏi: “Các cháu về thăm A1 à? Ở đây… nhiều đồng đội của ông còn nằm lại”. Nghe ông nói, Trường lặng người đi. Nghĩa giới thiệu ông là Lường Văn Sủ - pháo thủ từng trực tiếp chiến đấu tại đồi A1. Câu chuyện của cựu binh Sủ đưa Trường trở về những ngày ác liệt nhất của Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Thời điểm đó, hoa ban còn rộ lắm. Trời lòng chảo bắt đầu mưa, những chùm ban cuối vụ chưa muốn tàn, một mầu trắng rải khắp triền núi như ngọn lửa lạnh âm thầm soi sáng những ngày dài kháng chiến. Ban ngày pháo thủ Lường Văn Sủ cùng đồng đội kiên cường bám trụ, chiến đấu cầm cự. Đêm xuống đội anh lặng lẽ đào hầm xuyên đồi, nhịp nhàng cơ động vận chuyển từng gói bộc phá vào vị trí đã điểm. Bỗng Trường sững lại, mồ hôi túa lạnh trên trán, khi ông Sủ nhắc tên đồng đội Trần Văn Sỹ. Khoảnh khắc ấy, Trường như thấu hiểu sâu hơn sự hy sinh của ông nội và nhận ra vì sao nơi đây vẫn vang vọng những nhịp trống vô hình gọi hồn người về.

Qua lời kể của cựu binh già, hình ảnh ông nội Trường hiện lên mồn một. Trời Tây Bắc tháng tư đã lất phất mưa, chiến hào sũng nước, đất nhão nhoét thục đến gối. Trong hầm công sự chật hẹp, ông nội cùng đồng đội ngày đêm đào hào, khoét núi, đường hầm mở chỉ vừa đủ một người trườn qua, bí mật áp sát địch. Đêm đêm, pháo kích vẫn đì đùng trên đầu. Dưới lòng đất, chiến sĩ ta cần mẫn đào hầm công sự, từng nhát xẻng cắm sâu như những chú dế chũi nhỏ bền gan. Công việc vốn đã cực nhọc lại phải ngụy trang kỹ lưỡng, bí mật vận chuyển đất đưa ra ngoài, tránh tầm quan sát địch. Nhiệm vụ số một là bảo đảm đưa khối bộc phá vào đúng vị trí an toàn. Đường hầm ngày một đào sâu, khoảng cách giữa ta và địch chỉ còn vài chục mét. Đêm đêm, pháo kích rền rĩ trên đầu, lựu đạn vẫn chát chúa nổ như xé toác không gian, mùi thuốc súng xộc thẳng vào mũi, nóng ran trong lồng ngực. Từng động tác phải cẩn trọng tuyệt đối, chỉ một sơ suất cũng có thể trả giá bằng sinh mạng và làm hỏng toàn bộ kế hoạch tác chiến…

Trường nhào đến ôm lấy ông Sủ, giọng nghẹn lại: “Ông ơi, con là cháu nội của đồng đội ông, Trần Văn Sỹ đây!”. Ông Sủ sững người, nhìn Trường thật lâu, rồi đưa tay chạm nhẹ lên má cậu. Ông nghèn nghẹn:

“Đúng rồi… ánh mắt này, khuôn mặt này… giống anh Sỹ lắm. Thế là ta yên lòng rồi. Chiều nay con ghé nhà, ta có việc muốn nhờ!”.

Bên bếp lửa nhà sàn, ông Sủ kể: “Ngày đó, ta là chàng trai Thái 19 tuổi và tân binh Trần Văn Sỹ vào đơn vị cùng một ngày. Đêm xuống đơn vị ta làm nhiệm vụ đào hầm xuyên đồi A1, đưa thuốc nổ áp sát lô-cốt địch. Những ngày ấy, chiến hào đẫm mưa, đất nhão đến gối, nhiều người ngột ngạt lịm đi dưới hầm tối, nhưng vẫn thay nhau đào, quyết giữ từng tấc đất...”.

Giờ trên đã định. Đêm xuống, khối bộc phá gần một tấn được kích hoạt, cả đồi A1 rung chuyển. Tiếng hô “xung phong!” dậy như sấm. Trong màn lửa mù mịt ấy, một quả đạn cối nổ ngay vị trí hai người. ông Sủ chỉ thương nhẹ; còn ông Sỹ ngực bê bết máu, trong phút chốc, ông Sỹ cố rút chiếc khăn của vợ trao bạn, thều thào: “…không… về được… gửi hộ tao…”. Máu Sỹ thấm vào khăn, nhuộm đỏ. Sủ mang kỷ vật ấy suốt đời. Mỗi đêm, ông lại gõ trống gọi hồn bạn, theo phong tục người Thái, như để trò chuyện với người đã khuất.

Ông Sủ lấy chiếc khăn bạc màu trao cho Trường. “Ta giữ hộ anh ấy đã gần bảy mươi năm. Nay xin trả lại cho gia đình”, Trường ôm lấy ông Sủ mà nghẹn lời.

*

Về phòng, Linh hào hứng mở laptop khoe: “Em sẽ làm phóng sự thật mạnh về sự kiện này”, Trường sững người nhìn dòng tít “Khăn máu trên đồi A1 - bí ẩn chôn vùi”. Anh cau mày: “Sao em lại viết như một bài câu view thế này?”, Linh không hề nao núng, đôi môi mím lại: “Nếu anh muốn người ta nhớ, thì phải cho họ thấy. Người ta không đọc những chuyện trầm ấm nữa - họ chỉ click vào cái họ cảm thấy sốc. Em không làm xấu, em làm cho họ chú ý”. Giọng Linh khô, lý lẽ lạnh như dao. Trường gắt lên: “Nhưng đây không phải chuyện để giật gân mà là máu xương, là ông nội anh và đồng đội. Nếu biến thành trò câu khách, khác gì xúc phạm những người đã khuất”.

Trận cãi vã khiến Linh bỏ đi, mắt đỏ hoe. Đêm đó, Trường lang thang trở lại đồi A1. Gió rít qua những thân ban như tiếng trống thùng… thùng… vọng về bên tai. Trong mơ hồ, chiến hào sáng bừng lên. Một người lính trẻ, gương mặt hao hao Trường, bước ra. Giọng ông nội vọng về: “Cháu đã đến rồi. Hãy viết, viết một cách chân thật, để chúng ta như được sống trong lòng mọi người”. Trường thức giấc trong sương lạnh, lòng cuộn lên một niềm thôi thúc mãnh liệt.

Sáng hôm sau, Trường và Linh trở lại Nghĩa trang A1. Ba cựu binh cụt chân, cụt tay gõ trống bảy hồi, gọi đồng đội về nhận nén hương lòng. Linh đứng lặng. Điện thoại trong tay hạ xuống, ánh mắt cô dịu lại.

Trong căn phòng nhà khách Điện Biên thoảng mùi hoa ban, Trường ngồi bên Linh cẩn trọng ghi chép lại câu chuyện của ông Sủ. Những trang sổ tay vàng ố, những gương mặt đồng đội năm xưa, đó là những con người tuổi đôi mươi, người thích hát then, người mơ sau này thành thầy giáo… khiến Linh im lặng rất lâu.

Trở về Hà Nội, Trường mang theo chiếc khăn cũ. Thu xếp công việc, anh vội về quê. Vẫn hình ảnh đó, bà nội ngồi trước hiên, mái tóc bạc phơ lay nhẹ trong gió, Trường bước đến, đặt chiếc khăn vào tay bà. Bà khựng lại, đôi mắt rung lên khi nhận ra vật quen thuộc. Những ngón tay gầy guộc run rẩy lần trên viền khăn sần sùi, khô đanh bởi những vệt máu năm nào. Mắt bà nhòe lệ, giọng nghẹn đi: “Dù muộn… cuối cùng ông con cũng về. Cưới được hai năm thì ông nhập ngũ. Đây là chiếc khăn bà thêu tặng ngày ông lên đường…”.

Trường tựa đầu vào lòng bà, thấy như vọng lại từ rất xa tiếng trống trầm ngân, gọi về bao ký ức và linh hồn người đã khuất. Ngoài sân, gió lay khẽ tán cây, vài cánh ban trắng rơi xuống hiên nhẹ như hơi thở của quá khứ vừa chạm vào hiện tại.