Tây Nguyên và những cuộc gặp gỡ

Mỗi khi nghĩ sâu về Tây Nguyên, tôi lại nhớ về họ, những người đã góp phần giúp tôi hiểu hơn, cảm hơn dòng âm hưởng đại ngàn. Họ là những ân nhân trực tiếp và gián tiếp, góp phần nhuận sắc, gợi mở cho tôi thêm nhiều điều mới mẻ khi tiếp cận với vùng đất, con người, lịch sử và văn hóa miền thượng.
0:00 / 0:00
0:00
Ngày hội nơi buôn làng Kơ Ho giữa núi rừng nam Tây Nguyên.
Ngày hội nơi buôn làng Kơ Ho giữa núi rừng nam Tây Nguyên.

Trần Quốc Vượng, tên của vị giáo sư Sử học nổi tiếng ấy không chỉ được nhắc đến như “một uy tín khoa học” được thời gian kiểm chứng mà còn là “một nguồn cảm hứng” với những người đam mê lịch sử, văn hóa. Giáo sư qua đời đã gần hai thập kỷ, nhưng tên của ông thì các thế hệ học trò luôn nhắc. Tôi nhớ, lần đầu tiên được gặp và hỏi chuyện cố giáo sư là vào năm 1995, người dẫn tôi đến với ông là nữ thi sĩ Thảo Phương. Trong cuộc rượu bên lề một hội thảo ở Buôn Ma Thuột, GS Vượng chăm chỉ nâng chén hơn là giải đáp những thắc mắc của thằng bé con. Nếu tôi hỏi về âm nhạc dân gian Tây Nguyên, cụ Vượng bảo: “Cái này cậu hỏi Tô Ngọc Thanh, lão ấy sâu”. Nếu tôi hỏi về các bộ luật tục, cụ lại bảo: “Cái này ông Ngô Đức Thịnh làm kỹ”. Nếu tôi hỏi về văn hóa sử thi, cụ lại chỉ: “Ông Phan Đăng Nhật rất rành khoản này”. Rồi vị giáo sư khả kính bảo tôi giở sổ tay viết nhanh một danh mục tài liệu cần tham khảo trong khi cụ vẫn nhiệt tình nâng chén.

Buổi tối Đà Lạt của một ngày đã xa. Trong ngôi nhà nhỏ ấm áp ở đường Lý Tự Trọng, GS Phạm Đức Dương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, đã dành cho tôi những bài học kiến văn và luận pháp bổ ích. Chuyên gia hàng đầu về Đông Nam Á học ấy đã giảng giải tôi nghe những đúc rút cơ bản nhất về dân tộc học, về địa văn hóa. Cũng như GS Vượng, GS Dương cũng cung cấp danh mục những công trình nghiên cứu lừng danh của các tên tuổi trong giới khảo cứu dân tộc học quốc gia và quốc tế mà tôi cần tham khảo. Giáo sư nói: “Cháu làm nghề viết ở Tây Nguyên, nếu không ít nhiều hiểu biết về lịch sử, văn hóa, căn tính của các tộc người thì bài viết sẽ nhạt nhẽo, đi bên rìa, không thể cung cấp cho người đọc những lớp trầm tích thú vị bên trong...". GS Phạm Đức Dương tạ thế từ lâu, nhưng tôi đã ghi vào đầu lời dạy của bậc thầy khả kính, và bao nhiêu năm qua vẫn tìm đọc, suy ngẫm về những tác giả, những công trình mà ông tâm huyết chỉ giáo, giới thiệu. Dù kiến văn và khả năng của bản thân có hạn, chưa thể làm những điều tốt hơn, nhưng tôi biết rằng, tình yêu và sự gắn bó với vùng đất và con người ở nơi chốn này từ những cuộc tiếp xúc như thế đã được nhân lên...

Tây Nguyên và những cuộc gặp gỡ ảnh 1

Những cô gái Kơ Ho nam Tây Nguyên.

Vâng, không chỉ tôi mà bạn bè tôi và bất cứ ai muốn có những kiến thức đầu tiên về văn hóa các tộc người Tây Nguyên không thể không tìm đến những con người lừng danh mà những công trình của họ đã trở thành mẫu mực. Những học giả người Việt đầu tiên nghiên cứu có chủ đích về các sắc tộc thiểu số vùng này phải kể đến Nguyễn Đổng Chi và Nguyễn Kinh Chi bằng tác phẩm “Mọi Kontum” nổi tiếng, rồi Toan Ánh và Cửu Long Giang với cuốn sách “Cao nguyên miền Thượng”. Trước và sau khi ra đời Viện Viễn Đông bác cổ, đã có rất nhiều học giả người Pháp đã đến Việt Nam và chọn miền thượng du Trung phần làm nơi chốn ký thác tâm huyết và trí tuệ.

Để có những khảo cứu vô cùng giá trị như “Rừng, đàn bà, điên loạn”, “Pơtao-một lý thuyết về quyền lực ở người Jơrai Đông Dương” hay “Xứ Jơrai”, giã từ nước Pháp văn minh, Jacques Dournes đã dành nhiều năm tháng của cuộc đời mình cho vùng đất của các bộ tộc Tây Nguyên thời đời sống hoang dã. Nhà dân tộc học xuất thân linh mục đã cải đạo theo tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”, sống hòa mình trong đời sống đồng bào. Người thiểu số không gọi ông bằng cái tên tiếng Pháp mà họ gọi Dournes bằng bản ngữ là Đam Bo-người đàn ông tóc trắng. Dournes nói thạo tiếng của các tộc người, đóng khố cởi trần, ròng rã 20 năm sống với buôn làng. Ông viết về tộc người Jơrai như chính người Jơrai kể chuyện chính mình chứ không phải là cái nhìn suy luận, áp đặt. Ở vùng nam Tây Nguyên, những người già chưa quên hình ảnh chàng trai Pháp Georges Condominas, người đã xin già làng buôn Sarluk của người M’nông Gar bên dòng K’rông Anô được làm ngôi nhà sàn lợp bằng cỏ tranh và sống ngay tại làng, được nói tiếng M’nông Gar, được lên rừng săn thú, hái lượm, được xuống suối bắt cá, được tiễn đưa người chết và dự phạt vạ. Với ba năm làm người làng Sarluk “trong mơ cũng nói tiếng M’nông Gar thay cho tiếng Pháp”, và sau đó nhiều lần trở lại, G.Condominas đã cùng dân làng khai quật bộ đàn đá tiền sử có từ hơn 3.000 năm trước, một phát hiện làm chấn động giới khảo cổ trên toàn thế giới. Ông cũng là người tạo nên bộ khảo cứu làm giới dân tộc học châu Âu sửng sốt “Chúng tôi ăn rừng Đá-Thần Gô”, công trình được đánh giá là một mẫu mực về sự cách tân trong phương pháp tiếp cận dân tộc học. Một người đến Tây Nguyên trước G.Condominas là Henri Maitre. Người đàn ông tài hoa và tâm huyết này đã bỏ xác giữa rừng thiêng Tây Nguyên bởi những sự hiểu nhầm đau lòng sau khi đã hoàn tất công trình nổi tiếng “Rừng người Thượng”. Cùng thời với H.Maitre là L.Sabatier. Không nói đến chức phận của một viên Công sứ, người ta nhớ đến Sabatier chính là người đầu tiên phát hiện sử thi Đam San, một sử thi hùng vĩ của người Tây Nguyên và ông cũng là người đầu tiên hệ thống hóa bộ Luật tục Ê Đê. Linh mục Gioan Cassaigne trong quá trình trải nghiệm cùng những bệnh nhân phong ở vùng cao nguyên D’Jiring ở phía Lâm Đồng cũng đã sưu tầm bộ Luật tục Cơ Ho và công phu dịch qua ngữ hệ Latin...

Những cái tên của những người yêu Tây Nguyên đắm đuối. Những bộ khảo cứu lừng danh hình thành sau quá trình gắn bó mật thiết với không gian rừng. Những nguồn tâm huyết và năng lượng tràn trề khi đối diện hay hòa mình với các tộc người sinh tồn ngàn đời giữa thiên nhiên hoang dã. Những gì họ công bố đã đặt những nền tảng cơ bản. Đó là nguồn tư liệu quý giá, nguồn kiến thức dồi dào, nguồn cảm hứng bất tận cho những ai muốn tiếp cận với xứ sở đầy huyền bí và hấp dẫn này. Dù cách xa thời đại mà họ từng sống, từng cống hiến, nhưng tôi luôn nghĩ và cảm về họ bằng sự biết ơn. Các học giả người Việt, người Pháp vừa kể trên đây đã về với đất sâu xa xôi, nhưng những trước tác mô tả sinh động đời sống, sản xuất, văn hóa, tâm linh... của các tộc người Tây Nguyên vào hồi đầu thế kỷ trước của họ còn đây như minh chứng về những hành trình khám phá không mệt mỏi. Mỗi khi đến với một địa danh nào đó ở xứ sở này, tôi lại xúc động khi lật lại những trang khảo cứu và lần theo vết chân của những bậc thức giả đã dành thời gian, sức lực và tài năng cho những khai mở đầu tiên về dân tộc học ở xứ sở đại ngàn...

Tây Nguyên và những cuộc gặp gỡ ảnh 2

Sinh hoạt đời thường của người Mạ bên nhà dài truyền thống.

Ngày nước nhà thống nhất, nhiều học giả phía bắc lần đầu tiên có điều kiện điền dã, thâm nhập thực tế với văn hóa Tây Nguyên, trong đó có GS-TS-nhạc sĩ Tô Ngọc Thanh. Trong lần tiếp xúc đầu tiên, ông kể với tôi, mấy ngàn trang tư liệu và rất nhiều băng cassettes, mà đặc biệt nhất là những băng thu âm thô về âm nhạc dân gian Tây Nguyên đã được ông thực hiện trong những chuyến công tác khởi đầu ấy đã trở thành nguồn vốn căn bản cho đến bây giờ. Cùng hành trình với GS, TS, nhạc sĩ Tô Ngọc Thanh, GS, TSKH Phan Đăng Nhật lại mê mải “lạc” vào kho tàng sử thi. GS, TSKH Ngô Đức Thịnh thì chăm chú nghiên cứu luật tục nên nhiều tháng, nhiều ngày ngồi chứng kiến hội đồng già làng các tộc người xử tội, phạt vạ, hòa giải. GS, nhạc sĩ Tô Vũ thì thức uống rượu cần trắng nhiều đêm với đồng bào để ghi những làn điệu dân ca. Các giáo sư Hà Văn Tấn, Hoàng Xuân Chinh đặt bàn tay lên khắp Tây Nguyên để lắng nghe, kiếm tìm những trầm tích ẩn sâu trong lòng đất. Các giáo sư Mạc Đường, Phan Huy Lê truy tìm những nghi vấn khoa học bằng những dẫn luận lý thuyết vén dần những bức màn bí ẩn...

Thật may mắn, trong hành trình học hỏi của mình, tôi đã có được những lần tiếp xúc quý giá với các vị ấy, lúc ở Đà Lạt, khi Buôn Ma Thuột, dịp Pleiku, có hồi lại TP Hồ Chí Minh hay Thủ đô Hà Nội. Những câu chuyện với các chuyên gia hàng đầu ngành sử học, dân tộc học, khảo cổ học, âm nhạc dân gian hay folklore tổng hợp... thật sự là những cuộc mà các vị trưởng lão đã khai tâm, mở trí cho kẻ ít học, hiểu biết nông cạn. Từ những kiến thức mà các bậc thức giả đã “sấy khô, cô đặc” trong suốt cuộc đời làm khoa học của mình đã khai mở cho, cùng với những trang khảo cứu vô giá của các trưởng bối, đã giúp cho người viết báo non trẻ ở chốn núi rừng có thêm chút hành trang nhỏ bé khi đến với đồng bào nơi miền đất mà mình yêu quý.