Phải chăng, sau khi thấy Hội Nhà văn Việt Nam trao Giải thưởng thơ cho tập Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều như là tôn vinh sự thành công "đổi mới thơ đương đại", một số người đã vội vàng nhận định như vậy?
Tiếp nữa, Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản tập thơ Ô mai của Ðặng Ðình Hưng với lời tựa: "Gọi đây là một tác phẩm thơ thì nó là thứ thơ không chút bận tâm đến những quy ước có sẵn về thơ. Và quả thật nó là thơ đến tận cùng, ở một ngôn ngữ đầy nhạc tính bên trong, nén chặt và âm vang, gợi cảm và gợi tưởng, ở chất trữ tình trí tuệ, bông đùa rớm máu. Nó là thơ của công phu "làm tiếng Việt" thứ tiếng Việt - Ðặng Ðình Hưng, quanh co và nhảy vọt, chắc nịch và lan man". Ðánh giá của Nhà xuất bản Hội Nhà văn như thế, chúng tôi nghĩ, Ô mai phải là một tác phẩm của một thiên tài "không chút bận tâm đến những quy ước có sẵn về thơ". Và rồi, thực tế cho thấy, cuộc sống không chấp nhận được thứ thơ kiểu Ô mai, đó chỉ là những đoạn văn độc thoại của một người bế tắc đến mụ mẫm: "Hỏi: thể nghiệm cô đơn làm gì? Chắc ông buồn lắm? Ðáp: cô đơn mà là buồn? Thú vị đấy. Cô đơn, tôi về tôi, ông về ông. Tiện! Cô đơn mức độ nào thì tốt? - Cô đơn cứ phải toàn phần mới sinh năng lượng. Năng lượng 1! Từ 1 mà đi. Hỏi: thể nghiệm đậm nhạt là thế nào? Nhạt có việc gì không? - Ðáp: ba loại nhạt: nhạt 1, nhạt 2, nhạt 3. Nhạt 3 thì cực độc- đây ông xem fích đánh số - nhạt 3 jả - thông dụng gọi là fô...".
Còn tập Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng nữa, cũng không thể vào người đọc với kiểu thơ "mới" đến tắc tị thế này: "Bão loạn. Mùa vàng. Te tua. Nhừ giấc/ Bão loạn. Rùng rùng. Sặc nước. Giạt tóc. Liên lục địa sầm. Tìm, chết, đi/ Bão loạn. Dứt tung tay. Óc lói. Lơ láo tù về lạc thế kỷ. Sương đầm đẫm vóc miên mai"...
Tập thơ Sự mất ngủ của lửa, đã qua 20 năm vẫn chưa vào được người đọc, dù được Hội Nhà văn trao giải thưởng. Những tập thơ sau này của anh, cùng một cách viết, cũng chưa được bạn đọc ưa chuộng. Và gần đây, 28-6-2012, Viện Văn học tổ chức hội thảo "Thơ Nguyễn Quang Thiều trong sự đổi mới thơ Việt Nam đương đại", với khá nhiều bài tham luận cổ vũ, ca ngợi. Nhà thơ Mai Văn Phấn viết: "Hiện thực trong thơ Nguyễn Quang Thiều thường được tái hiện như giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải trong những cơn dư chấn; là giấc mơ của người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến hiểm nghèo, hoặc như người vừa chợp mắt đã nhìn thấy những trải nghiệm trong đời thực nhưng được phóng chiếu theo những cách thức khác lạ, có thể cảm nhận được cả hơi thở nóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh hoàng của đời sống trên da thịt". Nguyễn Quang Thiều bị quá tải trong những cơn dư chấn (những chấn động sau động đất?), là người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến (tim mạch?) hiểm nghèo, rồi khi làm thơ thì phóng chiếu theo những cách thức khác lạ... Cổ vũ Nguyễn Quang Thiều qua một câu văn dài dằng dặc, rắc rối và khó hiểu thế, liệu có làm cho người đọc thấy từ thơ Nguyễn Quang Thiều một bài học nhân sinh sâu sắc và khiến người đọc rung cảm được không?
Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, những câu "Nơi bầu vú ăn vào đá sỏi/ Cứ nâu dần sau mỗi tiếng u u" là hiện thực tái hiện từ giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải trong cơn dư chấn nào? Còn khổ thơ "Và ta chạm lời nguyền vĩ đại/ Man rợn ngân lên từ phía tối mặt trời" (Châu thổ, trang 52), là giấc mơ của người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến hiểm nghèo nào?...
Một bản tham luận nữa, viết rất công phu với rất nhiều từ, lý luận có vẻ cao sang, của nhà văn Hồ Thế Hà, sau vài nghìn từ cổ vũ Nguyễn Quang Thiều, đi đến kết luận: "... sẽ có những tiểu luận, những công trình dài hơi khác đề cập mới mong giải mã hết giá trị những ẩn ngữ, ẩn hình và ẩn tứ của thơ anh". Vậy thưa nhà văn Hồ Thế Hà, khổ thơ sau đây giải mã thế nào cho người đọc hiểu ý nghĩa của nó: "Mưa vẫn xối như máu không sao cầm được. Nước đã dâng lên ngập đôi giày của cô. Cô vẫn đứng lặng im như không có ai đứng đó. Hơi nước từ người cô bốc lên ngùn ngụt. Cô là một đám cháy trong mưa. Cô đứng đó, cây khô đứng đó. Một sự sống lặng câm dưới những đám mây mang theo cái chết, bên cạnh một cái chết thét gào đòi được phục sinh"? (Châu thổ, trang 244). Ở xứ sở nào mà mưa xối như máu? Người đàn bà dân tộc nào mà là một đám cháy trong mưa, vừa là đám cháy vừa như cây khô đứng đó, lại là một sự sống lặng câm dưới những đám mây mang theo cái chết? Chẳng nhẽ đó là làng Chùa, người đàn bà làng Chùa, "mẫu gốc" của thơ Nguyễn Quang Thiều như Hồ Thế Hà nhìn nhận? Riêng chúng tôi thấy, đoạn thơ trên của Nguyễn Quang Thiều dường như là một đoạn dịch từ một tác phẩm văn xuôi thuộc dòng hiện thực huyền ảo Mỹ la-tinh... Nhưng, nếu Hồ Thế Hà và các nhà nghiên cứu đồng chí hướng với anh giải mã được thơ Nguyễn Quang Thiều để người đọc hiểu và cảm động, thì, mỗi lần Nguyễn Quang Thiều in thơ sẽ in bộ giải mã ấy kèm theo, để người đọc khỏi phải căng đầu căng óc tìm kiếm những ẩn ngữ, ẩn hình, ẩn tứ, xem nó ở đâu? Nó như thế nào?...
Chúng tôi đã nghĩ rằng, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ sau 1975 được người đời yêu (theo cách nhìn nhận của Văn Cao). Nhưng ở đây, chúng tôi hy vọng ở anh nhiều hơn thế, nên bày tỏ ý kiến thiết thực của mình rằng: Chân lý giản dị lắm, thơ vào được với đời sống là thơ hay mà theo chúng tôi thơ Nguyễn Quang Thiều chưa hay. Có câu hỏi treo lơ lửng 20 năm nay rồi, bao giờ thơ anh hay? Khi thơ chưa hay, nếu nhà thơ được cổ vũ, đề cao nhiều, hãy tỉnh táo. Minh mẫn nhất là nhìn lại thơ mình, và cố tìm hiểu vì sao nó chưa hay. Ðược như vậy thì thật đáng mừng!