Mùa rưng rức đỏ

Khi ông về đến thành phố đã là giữa đêm. Gió tháng ba hấp lên da thịt ông cái nóng còn sót lại của ngày.
0:00 / 0:00
0:00
Minh họa: THU HÀ
Minh họa: THU HÀ

Người ta cứ nói thành phố này chỉ hai mùa mưa nắng. Nhưng, ông tin đâu đó, lẫn trong gió, trong mây, trong cỏ cây và cả lòng phố này, vẫn còn có một mùa nào đó thúc giục con người ta tìm đến nơi đây.

Gió ràn rạt thổi. Gió tháng ba là gió khởi nguồn cho tiết trời giao thoa giữa xuân và hè. Ông hay nói đó là những cơn gió già. Gió ướp không gian một vùng bứt rứt. Gió nảy lên trong dạ con người ta những thao thiết. Nhất là những người như ông, đôi chân chạm đất này cũng là những ngày tháng ba của năm mươi năm trước. Vùng ngoại ô khi đó trái châu chói sáng lòng đêm. Tiếng bom dội ì đùng như trời giáng cơn thịnh nộ. Mãi đến bây giờ, những ngày này, ông luôn nằm mơ giấc mơ lạ lùng. Những giấc mơ nhớ nhung màu trời nhờ nhợ vàng, bàng bạc khói thuốc súng và thấp thỏm đợi tin từ các mặt trận. Càng về đêm, càng lo âu. Vậy đó, chỉ một cơn gió mà buốt đến bời bời tâm can.

Nhiều lần, trong cữ trà chiều bên hiên nhà, ông cứ trầm ngâm. Ông còn hiện diện trong cõi đời này, còn ruổi rong đó đây là phúc phần của mình. Sau năm mươi năm, đất này, vẫn còn những âm ba trong lòng ông một nỗi riêng khó tả. Ông phải đi, đi cho đến khi con sóng hiền hòa lắng xuống vỗ yên ký ức thì ông sẽ về. Là một cuộc về đúng nghĩa như bao bạn bè nằm gọn trong vòng tay đất mẹ.

Xe dừng ngay một con kinh nhỏ. Lòng kinh um tùm những bụi bông phong sương đương thì trổ trắng cả triền quê. Từ đầu con kinh, chiếc ghe máy đuôi tôm đã chờ sẵn. Năm nào cũng vậy, cứ tầm này, dân nơi đây lại thấy mấy ông già mặc bộ đồ xanh, chỉnh tề ngồi ghe vào ngôi nhà cuối vàm. Nắng sớm thả những vệt dài vàng mật loáng luềnh sóng nước. Từng vòng hoa cúc vạn thọ lại được thả theo con nước. Nước xuôi dòng rồi về với cội nguồn của mình là biển lớn. Nước thương xứ này nên lắng thành phù sa bồi lở đời người. Nước cũng mang hồn thiêng của bạn bè họ quyện vào châu thổ. Nước vỗ về những rát buốt của vết thương âm ỉ bao nhiêu năm trời. Nhang trầm mênh mông cả khoảng không xanh vợi.

Mẫn nè, Trung nè, Cảnh nè, theo tụi tao về nhà thằng Đại ăn cỗ. Rì rầm lời gọi. Tiếng gọi biết có ai nghe thấu. Nhưng, mấy ông áo xanh vẫn gọi, bao năm qua mặc định đám bạn bè của mình vẫn còn đó, nghe thấy và theo về. Năm đó họ vẫn còn trẻ. Sau trận đánh vàm Ô Môi thì hành quân về khúc sông này. Con kinh đục nước, cây phong sương mọc quá đầu người, rậm rạp che cả một tiểu đội. Hồi đó, đất này hoang sơ. Sông nước che chở cho đoàn chiến sĩ trẻ trú vội trên đường đánh qua Cao Lãnh. Nhưng đó cũng là đêm cuối cùng của mấy thằng con trai mặt còn non choẹt. Nửa đêm, địch phát hiện chỗ ẩn nấp, dội loạt bom cày nát đồng phong sương. Càng rút sâu vào lại càng như lọt vào ổ phục kích. Có đứa lặn xuống sông rồi bơi xuôi về cuối vàm. Đại bảo nhà em phía đó, theo em. Đêm thâm u cứ lóe sáng lửa. Xứ này, lửa đạn chia cắt chín nhánh sông thành những gia đình mồ côi cha mẹ, thành những mái nhà không còn người trẻ.

Chiếc ghe xuôi đến cuối vàm, mé sàn lãng đã có người đứng đợi. Mấy ông già khệ nệ khiêng bánh trái lên nhà đồng đội. Bàn thờ nghi ngút khói. Căn nhà vừa sửa sang từ cái quỹ “Năm mươi ngàn” của mấy ổng trông cũng tươm tất. Vậy là năm nay tụi bây ngon lành nghen. Tụi tao dở quá, nên tận bây giờ mới lo được căn nhà của mày đàng hoàng. Đại ơi, vậy là xong cái ước mơ sửa nhà cho mày rồi đó…

Nắng phủ lên đồng bưng những cơn nhói lòng. Khói trắng bay thành từng vòng tròn, cứ quẩn quanh bám vào mấy ông già tận đến lúc xuống ghe ra khỏi con kinh phong sương để về thành phố.

Thằng “mười lần” ghé vội sang nhà ông một sớm trời dịu mát. Cái giọng ngọt lừ xác tín đúng điệu dân miền Tây thứ thiệt. Thị thành hơn chục triệu dân ôm vào lòng mình những người tứ chiếng quá giang một quãng đời nhưng chừng ngoảnh lại gá luôn phận mình hồi nào hổng hay. Năm mươi năm, đất nứt thành lô, thành lốc. Đất mọc lên những tòa cao ốc nguy nga. Đất sinh ra những khu căn hộ cao cấp. Đất chẳng còn màu nâu, đất hóa thành vàng, thành kim cương. Nhưng đất cũng như bong bóng, phồng lên thật to, rồi nổ cái oành, đất đóng băng. Dân làm cò đất đúng nghĩa là “bất động” và “sảng”. Thằng “mười lần” cũng làm cò đất. Nó dọn về xóm nhỏ ven đô này từ hồi sinh viên, cho đến khi ra trường lao đao tìm việc không được thì nhảy qua làm cò đất. Lúc đất lên, nó kiếm tiền rủng rỉnh. Lúc đất chết nó héo queo tàn tạ, chạy xấc bấc xang bang cũng không kiếm đâu được việc. Cầm tấm bằng đại học ngành du lịch, tiếng Anh vèo vèo mà bỏ xếp xó trong căn phòng trọ để đu bám theo ước mơ đổi đời nhờ đất. Bữa nó buồn hiu ngồi tâm sự ngoài quán cà-phê cóc đầu hẻm. Vợ chồng thằng con ông đụng ngày cuối tuần cũng hay tụ bạ với hàng xóm ngoài ấy nghe mà cám cảnh. Thằng nhỏ cùng quê với mình đó ba, nó dân Lai Vung, miệt Long Hậu. Nghe tội quá, ngay lúc công ty con đợt cao điểm có khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, mới kêu nó làm bộ hồ sơ mai qua phỏng vấn làm thời vụ. Làm ngon lành thì có khi được giữ lại ký hợp đồng. Thằng “mười lần” bén duyên với nhà ông từ đó.

Lần đầu nó ghé sang nhà, nhìn mấy cái bằng khen ông treo trên tường, nó cười khúc khích. Trời thần có khi nào ông là bạn đi bộ đội với ông nội con không? Rồi nó kể rõ mồn một về ông bộ đội nhà ở chợ Hòa Long, tên Sáu Trí, ổng bị sứt môi trên, ổng bắn súng giỏi lắm nhen, ổng đánh trận Cao Lãnh bị nát cái chân trái, giờ đi cà thọt. Ông nghe choáng váng. Đâu mày điện thoại ông nội mày cho tao nói chuyện. Cú điện thoại bất ngờ lại kết nối thêm một người đồng đội mà biến thiên thời cuộc mấy chục năm mất tin tức. Vậy là cái Hội “năm mươi ngàn” lại có thêm chiến hữu cho cuộc ruổi rong hong ấm những vết thương cũ cho những đồng đội đang còn nhiều khó khăn giữa thời bình.

Thằng “mười lần” khi đó vẫn ngơ ngác. Hội cựu chiến binh sao hổng lấy tên vậy cho nó hay, lấy chi cái tên Hội “năm mươi ngàn” lạ lùng vậy trời? Ông châm bình trà, kéo thằng nhỏ ra sân nhà khề khà kể. Thì mỗi tháng tụi tao để dành năm mươi ngàn trong mớ lương hưu để làm cái quỹ thăm bệnh, xây nhà tình nghĩa, hay ma chay cho đồng đội. Vậy chứ gần hai chục năm nay rồi đó nhen. Ban đầu có chục ông gom góp giờ lan ra thành mấy trăm ông, cứ người này giới thiệu người kia biết mà góp quỹ. Có khi họ xa lạ chẳng quen biết, nhưng cùng là bộ đội chiến đấu nên coi như chung một gia đình. Có người góp năm mươi ngàn, có người góp cả trăm, có ông cho cả triệu. Cứ vậy mà bôn ba khắp nơi mỗi khi có thông tin đồng đội cần giúp đỡ. Thằng nhỏ gật gù, hay quá chừng ông ơi.

Thoảng khi ghé ngang nhà ông, nó thấy mấy ông già tay quảy ba-lô, mặc đồ xanh lá là nó hỏi to: “Mấy ông năm mươi ngàn đi thăm đồng đội à?”. Câu hỏi khiến mấy ông già bật cười. Nó khoái chí gọi ông là “ông năm mươi” từ dạo đó. Rồi cứ vậy mà mỗi tháng, tới kỳ lãnh lương, là nó ghé đến, dúi vào tay ông tờ tiền xanh dương, nó bảo: “Này là mười lần năm mươi ngàn”. Hai năm rồi, đều đặn như vậy. Ông cũng gọi vui nó thành “thằng mười lần”.

Ngày đã cạn nắng, ông vẫn nhấp từng ngụm trà. Lá trà từ lũng vắng Đại Nga tận Bảo Lộc của thằng đồng đội ngày xưa hay xáo rồi biếu cho mấy ông già. Trà quý nương một tôm hai lá. Đó là thứ tinh túy nhất của cây trà, nằm trên ngọn, hứng trọn sương đêm, và phải hái trước lúc mặt trời lên, chứ trà hái sau đó gọi là trà bà lão. Bận thằng bạn nói với ông, xáo trà kỳ công lắm nên tui chỉ làm tặng mấy ông. Bao tiền không bán. Bao người thèm không có. Mấy ông già chẳng biết đúng sai, nhưng cứ gật gù tin một cách thiệt tâm, bởi kỳ thực hậu trà rất ngọt. Bà vẫn khuấy đều ly cà-phê. Thứ cà-phê rang tay theo phong cách cũ kỹ trộn thêm ít bắp, bỏ thêm ít bơ, và nhỏ vài giọt nước mắm, bao đời nay dân thị thành uống miết thì nếp quen. Ngộ đời ông bà trái ngược tính nhưng lại gắn bó đến tận bây giờ.

Thằng “mười lần” ghé ngang chào ông để về đám giỗ. Giỗ kinh. Ngày cả con kinh lềnh khênh xác, luềnh loáng máu. Họ đến, và nằm lại với châu thổ chín nhánh sông này, ngay con kinh để xương cốt năm mươi năm hóa thành phù sa bồi bãi. Nên giỗ chung. Giỗ những người tử trận của một trận đánh. Dân Cửu Long thì lòng mênh mông như sóng nước. Ông bần thần nhớ những ngày tháng ba sôi sục, rát buốt những trận đánh để tháng tư ngời sáng những nụ cười ôm nhau mà nước mắt rơi: Thắng rồi! Sống rồi!

Nó lại đưa ra cái phong bì. Đây là con hùn với “ông năm mươi”, tháng sau là mình cúng mâm chiến sĩ thật hoành tráng để mời đồng đội về ăn mừng! Mừng thống nhất. Thằng nhỏ từ ngày được nhận vào công ty du lịch con ông bỗng đâm ra khoái nghe mấy chuyện chiến tranh. Nó kể cứ gặp khách du lịch quốc tế là ngày đầu tiên dắt lên Củ Chi cho chui hầm, cho ăn khoai mì chấm muối mè. Rồi dẫn đi cái Bảo tàng chiến tranh. Biết chi hông “ông năm mươi”? Để họ thấy mình có được như ngày hôm nay là một sự ngoan cường của cả dân tộc. Nó nói rồi cười tươi rói. Vậy đó, mà tụi nước ngoài nghe nhắc đến chuyện chiến tranh là giơ tay số 1. Nó khen dân mình dữ lắm!

Thằng “mười lần” nổ máy xe, tiếng cười tươi trong rớt lại xóm nhỏ. Thành phố này vẫn luôn có một mùa nhớ để người ta lần hồi ký ức mà quay về giữa những ngày cờ đỏ rưng rức ngập phố phường.