Ngoài kia gió đang tung hoành. Khum hai bàn tay cố giữ cho bao diêm khỏi rơi xuống đất, anh lật bật mãi cũng đánh được đầu que diêm sượt sượt vào thân hộp. Ðốm sáng lóe lên rồi tắt lịm. Năm lần, bảy lần cuối cùng cái đốm lửa đơn tẻ ấy cũng khêu được vào cây đèn con. Ánh sáng chùng đi giữa không gian. "Thôi ngồi thế này vậy", anh xác định, "Ðành ngồi thế này vậy, chờ chừng nào mệt quá chắc sẽ ngủ được".
***
Mười năm trước, cũng vào tiết đông như thế này, anh lần mò về được tới làng. Quần áo rách bươm. Miệng khô khát. Anh tần ngần nấp sau điếm canh đê nhìn vào làng. Con đường chạy từ dốc đê thẳng vào làng tối om om. Thỉnh thoảng trên trời vụt lóe lên ánh chớp. Tiếp theo là những tiếng nổ rất xa. Bầu trời chiến tranh lạnh lẽo đến ghê người. Tựa lưng dựa vào mảng tường lạnh tê trong điếm canh đê, anh như kẻ vô thân. Không đắn đo và chẳng đợi chờ. Có tiếng cú lượn đâu đó nghe chợn rợn, tiếng côn trùng ri rỉ cảm như kêu ngay dưới chỗ ngồi.
Sáng hôm sau. Những người đi cày sớm ghé vào điếm canh đê tranh thủ kéo vài điếu thuốc lào trước khi xuống đồng. Họ hú hồn và gần như đứng hết cả tim khi trông thấy anh. Hay đúng hơn là họ nhìn thấy cái đống co quắp đang phập phồng lên lên xuống xuống theo nhịp thở. Họ đứng mà tưởng chết lặng. Sau một hồi nhìn ngắm và xì xào bàn tán, họ quyết định lại gần cái đống co quắp đang phập phồng lên lên xuống xuống đó. Từ chỗ anh nằm, mùi hôi hám, mùi tanh tưởi bốc lên lờm lợm. Một người trong bọn họ có lẽ là bợm nhất lấy cành cây nhỏ đập đập dò xem động tĩnh. Anh bị đánh thức nhưng cũng chưa tỉnh khẽ cựa quậy. Từ trong cái đống co quắp đó ló ra một đôi mắt thao láo, đôi mắt mở trừng hai tròng mắt nhìn đám người lạ lẫm. Cuối cùng sau hồi ngơ ngác anh cũng đã nhận ra đó là một tốp người. Tốp người kia cũng ngơ ngác và nhận ra cái đống co quắp đó là một con người vẫn còn sống. Họ đã hết sợ hãi nhưng vẫn còn e ngại. Cái chính là họ chưa hết bất ngờ tưởng như ma hiện về trêu ngươi. Anh đã tỉnh hẳn và quên mất chính mình là ai. Anh hướng về phía họ và thầm thì câu gọi không thành tiếng. Những người thợ cày sớm sau hồi phân vân cũng bàng hoàng nhận ra anh. Chẳng ai bảo ai họ dè dặt lùi lại một quãng ngắn, khoảng cách vừa đủ yên tâm. "Ở Trại... bom đánh nát mất rồi". Anh húng hắng ho "Tôi chạy về làng...". Ðám thợ cày co rúm lại. Thực khó nói thế nào cho hợp. Anh chưa hết mừng lại thì thào nhìn nói họ đầy cầu khẩn "Tôi đói và lạnh quá".
Trời quang dần. Lúc này đã trông rõ dải đê dài lù lũ chạy uốn lượn theo dòng chảy của con sông. Và chợt hiểu ra thực cảnh của mình, anh ngơ ngác hòng tìm chỗ nấp, đầu anh va vào tường đau điếng. Có ai đó đẩy lại cho anh nắm cơm.
Anh được làng cắm cho túp lều ngoài bãi sông.
***
Thực ra anh cũng có một cái tên xứng đáng. Nó có đầy đủ họ, chữ lót. Ở làng, họ nhà anh xếp vào loại nhất nhì về đông con nhiều cháu. Chẳng hiểu đời cụ kỵ nhà anh thế nào, chứ vài ba đời lại đây mọi người đều phương trưởng. Vào năm anh tròn mười tám tuổi phổng phao và ra dáng, các cô gái xóm ngoài, xóm trong nhìn anh mà lúng liếng những cặp mắt tròn xao xuyến. Các cô má đỏ hây hây ngước mắt long lanh trông theo dáng anh vừa đi qua mà túm lưng túm áo nhau đấm thùm thụp. Má cô nào cô nấy đỏ lựng thêm lên. Gái quê vào tuổi thèm chồng ăn nói bạo mồm bạo miệng phải biết. "Tướng ấy đắt vợ". Ðã có cô nào đấy nói thầm nhưng đủ cho anh nghe thấy. Anh xấu hổ, cứ đinh ninh mọi người đã biết tỏng rằng anh có tình ý với cô Thoan người xóm giữa. Thoan được cái nết na. Bữa anh phải lòng cô là bữa anh đi nhầm vào ngõ nhà cô. Thoan biết anh đi sau, chân nửa muốn bước nhanh nửa chùng chình ý đợi. Thấy Thoan chùng chình anh ngượng ngập đứng lại. Cả hai dùng dằng lâu lâu ngoài ngõ.
Sau trận bom Mỹ ném bến phà Ngọc. Làng trên xóm dưới xôn xao hẳn lên. Thời trước "bốn nhăm", bom Nhật cũng đã ném xuống đó. Nhưng những tiếng nổ vỡ sông vỡ bến của bom Mỹ còn gấp nhiều lần bom Nhật. Có người đã te tái tính chuyện tản cư. Có người bạo phổi bảo "sợ cái đếch gì". Nhưng tựu chung chẳng có ai yên bụng. Rồi cánh trai làng lứa tuổi anh và cả lớn hơn tuổi anh có lệnh xuống huyện khám sức khỏe. Nói chung là vui. Anh cũng vui. Riêng anh được khám đi khám lại. Mấy ông bác sĩ bảo anh đợi cuối buổi. Ðám trai thôn thầm thì "Hình như nó được chọn vào đơn vị đặc biệt? Chính tao thấy họ khám nó kỹ lắm". Biết vậy thôi. Anh vẫn phải chờ xong buổi khám.
Ðến chiều họ mời anh vào một gian phòng. Các bác sĩ đã thay quần áo thầy thuốc, họ nhìn anh thân thiện. Lòng anh rộn lên hồi hộp và phân vân. Cuối cùng cái giây phút ấy cũng đến. Một ông bác sĩ tóc hoa râm thong thả hỏi anh về gia đình, về họ hàng. "Sao họ rào đón nhiều thế - Anh thầm nghĩ - Ðơn vị đặc biệt tôi cũng sẵn sàng". Vẫn ông bác sĩ tóc hoa râm, ông nói "Cậu có dấu hiệu của bệnh phong. Chúng tôi sẽ giới thiệu cậu nơi điều trị". Bệnh phong? Bệnh hủi? Anh choáng váng, hai tay ôm lấy đầu. Mọi lời an ủi của mấy ông bác sĩ đều bay lên trời. "Hóa ra là như vậy. Chẳng có đơn vị đặc biệt nào cả. Ðời mình thế là hết!" Anh khóc nấc lên.
Tin về tới làng. Lần này thì sự nhớn nhác còn khiếp hơn mấy quả bom Mỹ ném bến phà Ngọc. Khổ nhất là Thoan. Cô như rúc hết cả mặt mình vào chiếc gối để khóc. Cô nhớ lại cái nắm tay của anh bữa nào. Cô hình dung lại hơi thở của anh ấm nóng trên mái tóc mình. Mẹ cô, thầy cô, các em cô đi ngang qua giường cô một cách vội vã. Thoan cảm thấy tội lỗi và nghẹt thở... Nhập nhoạng tối hôm đó Thoan trốn mọi người trong làng, trốn nhà đi đâu không rõ. Sau này có người nói gặp cô trong đơn vị thanh niên xung phong.
***
Hồi xửa hồi xưa. Làng Phù Sa là một doi cát nhỏ vươn choi loi tới sát mép nước sông Hồng. Mùa lũ, dòng sông ngầu đỏ và rộng kềnh càng. Doi cát chìm lút trong nước. Nhưng đến mùa cạn, nó lại phơi mình dưới nắng, chỗ doi cát ấy bây giờ là đình làng. Cổ tích kể lại rằng: Thuyền của công chúa Tiên Dung con gái yêu của vua Hùng thứ 17 đi ngang qua đấy. Tự dưng, mũi thuyền lái thế nào cũng xoay đầu vào doi cát. Ðám thị nữ lo lắng. Công chúa Tiên Dung bèn sai cắm sào, nàng bước lên doi cát. Thứ cát ở đây thật lạ. Mỗi bước chân của nàng dường như bị hút chặt lại. Hai chân mỏi mềm. Công chúa Tiên Dung sai quây quanh chỗ nàng bị cát giữ lại, chỗ nàng đang bị cát giam cầm những tấm điều đỏ. Lạ lùng sao màu cát óng ánh chuyển sang màu hồng thẫm. Nàng có cảm giác muốn tắm...
***
Chừng như gió đã dịu. Ngọn đèn con tỏa một quầng sáng ấm. Anh không thấy thèm ngủ nữa. Hai mắt ráo hoảnh. Tấm chăn tụt xuống ngang bụng. "Giá lúc này được củ khoai hay bắp ngô nướng nhỉ?". Ðầu nghĩ vậy nhưng anh không muốn rời chỗ ngồi. Vả lại bây giờ đi khơi bếp cũng ngại. Vắng vẻ quá. Bến phà Ngọc đã chuyển chỗ khác lâu rồi. Quãng sông hồi nào ồn ã giờ lạnh lẽo. Nhớ lại hôm cánh trai làng tòng quân mà ứa nước mắt. Hôm đó anh nấp sau hàng ô rô nhìn các chàng lính mới toe, tíu tít chào nói. Nhìn những cánh tay vẫy tiễn với những chiếc khăn tay bé xíu bay bay ngang đầu các cô thôn nữ. Họ đi qua chỗ anh nấp. Anh sợ hãi ngồi thụp xuống. Khi anh đứng lên con đường làng chỉ còn vương lại từng chùm nắng đong đưa. Thèm được đi như họ quá. Thoan thì chẳng biết ra sao?
Gió lại bất ngờ đập vào túp lều. Ngọn đèn chao lao chực tắt. Anh cuống quýt nhìn bâng quơ ra ngoài. Vẫn còn tối lắm. Hồi mới dựng lều đêm đêm anh gần như thức trắng. Vừa buồn lại vừa sợ. Những con chuột vốn quen rằng chỗ này không có sinh vật nào khác ngoài chúng, nên chúng rất táo tợn đưa lũ lít con cháu đùa nghịch cả trên mặt anh. Có sáng tỉnh dậy anh thấy đầu ngón tay đầu ngón chân bị chuột gặm nham nhở. Cảm giác đau đớn của người mắc bệnh phong không còn. Bọn chuột như vớ được món ăn lạ cứ hở lúc anh ngủ lại bò ra đánh chén. Các ngón chân ngón tay cụt dần, cụt dần. Cực chẳng đã, anh nghĩ ra một cách. Suốt cả ngày vất vả anh tìm được mấy cái ống sữa bò bị cát vùi ngoài bến cũ. Tối ngủ anh đút bàn chân, bàn tay vào đó. Biện pháp tỏ ra hiệu nghiệm, nhưng được một thời gian thì chính những rỉ sắt phá hủy tiếp phần cơ thể vốn đã tã tượi của anh. Bỏ ống bơ ra thì chuột. Lắp ống bơ vào thì thịt loét ra. Bị dày vò đủ điều anh có đêm lết đến mép nước định để cho dòng nước cuốn đi. Anh nghĩ đến cái chết. Lúc mặt anh vục vào nước lạnh giá lại là lúc anh thấy tỉnh táo. Nước chảy lan lan lành lạnh qua làn da mặt. Hình như gương mặt của Thoan với hàm răng hạt na sáng như ánh trăng, đang nhìn anh đăm đắm. Hình như Thoan nói rằng anh phải gắng sống để chờ cô ấy về, chờ để Thoan được nói cho ra đầu ra cuối. Thoan đâu có bỏ anh, Thoan bỏ làng như để xua đi cái mặc cảm cho mối tình đầu vừa lóe lên đã vụt tắt. Nói thực Thoan còn thương anh. Anh ngẩng mặt thốt lên "Thoan ơi"...
(Còn nữa)