Truyền thông là “chìa khóa”
Bọn tội phạm thường sử dụng các phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt lừa phỉnh khiến nhiều người sập bẫy xuất khẩu lao động “chui”, bị lừa bán, nhất là những phụ nữ nhẹ dạ cả tin. Tuyên truyền nâng cao nhận thức hẳn là “liều thuốc” đặc trị?
Bà Trần Thị Yến Nga, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Giang: Quan điểm của tôi là “phòng” thì đương nhiên chủ động, tích cực và hiệu quả hơn “chống”. Tăng cường truyền thông là biện pháp vô cùng cần thiết. Ở Hà Giang, trong số hơn 15.000 người sang Trung Quốc làm thuê thời vụ có hơn 3.000 phụ nữ. So với đàn ông, phụ nữ phải đối mặt với độ rủi ro cao hơn nhiều. Khá nhiều chị em gia cảnh khó khăn, mù chữ, hiểu biết pháp luật mù mờ, khi bị các đối tượng rủ rê hứa giúp tìm việc làm thu nhập cao mà nhàn hạ nên khó tránh khỏi mắc lừa. Truyền thông là “chìa khóa” giúp họ nắm rõ âm mưu, thủ đoạn kẻ xấu và nhận thức tốt hơn, hiểu rõ nguy cơ, rủi ro tiềm ẩn và cả hệ lụy khi tha phương, con cái ở nhà nheo nhóc, dễ hư hỏng để từ đó nói “không” với lao động “chui”.
Theo tôi, truyền thông phải bao phủ diện rộng nhưng cũng cần có trọng tâm, tập trung ở các điểm nóng và chú trọng phòng ngừa từ xa đối với nhóm phụ nữ yếu thế, có nguy cơ cao. Với không ít chị em nặng lo toan, vun vén cho gia đình nên vẫn chấp nhận rủi ro đi làm để thoát nghèo, chúng ta phải thường xuyên nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của họ để tư vấn, truyền thông, hỗ trợ kịp thời. Muốn tuyên truyền, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả cao thì cách thức phải linh hoạt, hình thức đa dạng, nội dung phong phú, dễ nhớ, dễ hiểu, phù hợp tâm lý phái yếu và thực tiễn địa phương.
Thượng tá Lê Văn Hòa, Phó trưởng phòng Phòng, chống ma túy và tội phạm, Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu: Tôi thấy, phòng, chống xuất khẩu lao động “chui” mang tính xã hội cao nên phải áp dụng phương châm “phòng ngừa là chính” và tuyên truyền là biện pháp cốt yếu, nhất là trong bối cảnh đấu tranh còn hạn chế.
Thực tiễn qua những vụ án chúng tôi khám phá, nhiều nạn nhân không được trang bị kiến thức pháp luật, trong khi ít va chạm, thiếu hiểu biết, cả tin nên bị lừa, ngay cả khi gặp rủi ro cũng không thể tự bảo vệ. Truyền thông, giáo dục, phổ biến pháp luật giúp bà con nâng cao cảnh giác, nắm rõ chủ trương, chính sách pháp luật về xuất nhập cảnh, lao động nước ngoài, cư trú... từ đó nghiêm chỉnh chấp hành, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, tăng cường tuyên truyền, phổ biến mô hình làm ăn kinh tế giỏi giúp bà con học tập, yên tâm làm giàu tại quê hương cũng là “liều thuốc” miễn dịch hữu hiệu. Bởi giảm đói nghèo, thất nghiệp là bớt thêm được một nguy cơ tiềm ẩn.
Chị Nguyễn Thị Thân (Xuân Phú, Yên Dũng, Bắc Giang): Tôi đã từng hai lần trở thành nạn nhân của bọn buôn người. Dại dột nghe theo lời gạ gẫm đường mật sang Trung Quốc lao động chui, tôi bị đánh thuốc mê, bán trao tay qua nhiều chủ rồi bị bán vào một gia đình nông dân nghèo ở Quảng Châu (Trung Quốc). Hai năm sau, trốn thoát trở về nhưng đối mặt với dị nghị của dư luận, tôi đành gạt nước mắt vượt biên lần nữa và lại bị lừa, bị buộc phải làm vợ hờ một người đàn ông tàn tật, mãi sau này mới bỏ trốn được.
Từng trải qua đắng cay, tủi nhục, tôi nhận ra nhiều chị em cũng do thiếu thông tin, lại nhẹ dạ cả tin nên mới mắc lừa, vậy mà vì e ngại, mặc cảm không dám tố cáo nên tội phạm càng lộng hành. Thế nên tôi quyết định tham gia tuyên truyền trong cộng đồng để tránh những bi kịch tương tự và tiếp thêm động lực để các nạn nhân dũng cảm tố giác, buộc chúng phải đền tội.
Tuy nhiên, rào cản, khó khăn gặp phải khi thực thi cũng không ít?
Bà Trần Thị Yến Nga: Quả thực, tôi thấy nhiều khó khăn. Muốn truyền thông đạt hiệu quả cao phụ thuộc cả đối tượng tuyên truyền và người tiếp nhận. Một số báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở tuy nhiệt tình nhưng còn hạn chế kiến thức pháp luật, kỹ năng và kinh nghiệm, trong khi số chị em vùng sâu, vùng xa nhận thức hạn chế, mù chữ, tái mù chữ, không biết nói tiếng phổ thông còn khá nhiều nên tiếp thu, nắm bắt thông tin khó khăn.
Điểm nữa tôi muốn nhấn mạnh là kinh phí truyền thông eo hẹp nên “cái khó bó cái khôn”, không thể duy trì thường xuyên các mô hình hoạt động tốt (vì phụ thuộc nhiều vào nguồn lực tài chính hỗ trợ từ dự án của các tổ chức phi chính phủ) nên phải linh động lồng ghép nhiều chương trình. Đơn cử, mô hình diễn tập thực binh xử lý tình huống tuy rất hiệu quả nhưng ít có điều kiện tổ chức vì tốn kém, phải huy động nhiều lực lượng (ít nhất 20 triệu đồng/lần).
Thượng tá Lê Văn Hòa: Lai Châu có đường biên dài hơn 260 km, 100% xã biên giới đều thuộc diện đặc biệt khó khăn, dân trí thấp, nên không ít người sang Trung Quốc lao động trái phép không nhận thức được hành vi đó vi phạm pháp luật, khi được giải cứu về nước lại tiếp tục đi lao động chui. Bởi vậy, công tác tuyên truyền rất gian nan. Nhiều người không mặn mà, hăng hái khi được mời họp bản, tham dự hoạt động tuyên truyền vì bận làm ăn hoặc quan niệm chuyện “cơm áo gạo tiền” bức xúc, cấp thiết hơn. Dù chúng tôi tuyên truyền mạnh, ráo riết kêu gọi nhưng nhiều nạn nhân trở về vẫn không trình báo, không dám tố cáo tội phạm, “cò mồi”. Thân nhân họ cũng ngại ngùng không cộng tác với cơ quan chức năng nên khó nắm bắt nguồn tin, đón lõng bắt giữ tội phạm và ngăn chặn đối tượng đi lao động chui. Chưa kể đồng bào sống rải rác, đường sá đi lại khó khăn. Có đợt, cán bộ biên phòng đi tuyên truyền gặp mưa lũ phải mất cả tuần mới tiếp cận được bà con.
Chị Nguyễn Thị Thân: Tôi không thể quên những ngày tháng tủi hổ, đau đớn khi mới trở về. Sợ điều tiếng, kỳ thị, ánh mắt dè bỉu của người thân, làng xóm, tôi không dám ra đường ban ngày, nếu có cũng bịt mặt để không ai nhận ra. Đó quả là cực hình. May mắn thay, biết hoàn cảnh của tôi, cán bộ Chi cục Phòng, chống tệ nạn xã hội tỉnh Bắc Giang đã tìm đến chia sẻ, động viên tôi mạnh dạn tham gia nhóm Tự lực. Tôi rất băn khoăn, trăn trở nhưng sau nhiều ngày suy nghĩ, cuối cùng cũng quyết định bước ra khỏi “bóng tối”. Có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, tôi càng mạnh dạn, tự tin hơn, tích cực chia sẻ với chị em đồng cảnh và tuyên truyền, vận động mọi người chung tay đẩy lùi nạn mua bán người, tẩy chay xuất khẩu lao động “chui”.
“Mưa dầm thấm lâu”
Với đối tượng truyền thông đặc thù kể trên, hẳn phương thức thực hiện phải rất linh hoạt và mềm dẻo để tạo bước chuyển trong nhận thức, từ đó tích cực thay đổi hành vi?
Bà Trần Thị Yến Nga: Theo tôi, truyền thông phải áp dụng nguyên tắc “mưa dầm thấm lâu”, vì đồng bào không thể một sớm một chiều nâng cao nhận thức ngay được. Muốn tạo bước chuyển trong nhận thức người dân, phải tranh thủ phối hợp các ngành, các cấp, làm thực chất, không chạy theo kiểu “phong trào”.
Để hướng tới số đông, chúng tôi tổ chức tuyên truyền phòng, chống mua bán người và di cư lao động bất hợp pháp tại chợ phiên các xã biên giới bằng tiếng phổ thông và tiếng dân tộc, theo hình thức sân khấu hóa (diễn kịch, tiểu phẩm dựa trên chất liệu từ những câu chuyện có thật, biểu diễn văn nghệ, giao lưu với khán giả...). Bà con biết tiếng phổ thông nhưng vẫn chuộng nói tiếng dân tộc. Chỉ cần một tuyên truyền viên hát một bài hát tiếng Mông hay có món quà nhỏ dành cho ai trả lời đúng trong phần tìm hiểu pháp luật là người đi chợ ngừng mua bán, đổ xô tới tham gia sôi nổi. Hội còn có sáng kiến tổ chức mô hình diễn tập thực binh xử lý tình huống ngoài hiện trường, nhiều tỉnh bạn tới học tập. Qua đó, nâng cao kỹ năng xử lý tình huống cho chính quyền địa phương, các ngành, trưởng thôn, bản, chủ tịch phụ nữ xã và tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng trực quan sinh động cho đông đảo người dân chứng kiến. Nhiều cách làm sáng tạo khác cũng thu được hiệu quả thiết thực như mô hình câu lạc bộ, phát phóng sự về những câu chuyện do nạn nhân kể lại, treo pa-nô, áp-phích ở trụ sở thôn, bản để mọi người xem mỗi lần qua lại, tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật về phòng, chống mua bán người cho cả lái xe ôm... Nếu truyền thông cộng đồng chưa đủ thuyết phục, cán bộ phụ nữ cơ sở còn “vào từng ngõ, gõ từng nhà” để tuyên truyền tới từng hộ dân.
Thượng tá Lê Văn Hòa: Theo kinh nghiệm của tôi, tuyên truyền qua ti-vi, đài (cho dù phát bằng tiếng dân tộc) ít đến được với bà con vì nhà có, nhà không. Hơn nữa, cả ngày đi làm vất vả, tối về đi ngủ, nên cơ hội cập nhật kiến thức, thông tin cho họ rất hiếm hoi. Vì thế, hình thức chủ yếu áp dụng là tổ chức họp dân, chọn thời điểm nông nhàn, buổi tối... để nhiều người có điều kiện tham gia. Chúng tôi cố gắng truyền đạt đơn giản, dễ hiểu nhất về các chính sách pháp luật, vạch trần thủ đoạn tội phạm; cảnh báo người dân biết rõ nhập cảnh trái phép và cư trú bất hợp pháp tại Trung Quốc sẽ bị xử lý, chưa kể đối mặt với muôn vàn rủi ro có thể xảy ra như bị cướp bóc, đánh đập, cưỡng bức lao động... để họ chủ động phòng ngừa. Chuyển tải trúng đối tượng có nguy cơ cao, lại tranh thủ sự vào cuộc tuyên truyền của già làng, trưởng thôn, bản; cán bộ biên phòng chịu khó bám dân nên chúng tôi đã vận động nhiều người thực hiện nghiêm các quy định pháp luật khi xuất cảnh và tích cực tham gia phòng ngừa xuất khẩu lao động “chui”.
Chị Nguyễn Thị Thân: Điều quan trọng nhất với những tuyên truyền viên từng là nạn nhân như tôi là phải vượt qua được mặc cảm. Tôi trân trọng sự động viên, chia sẻ tiếp thêm nghị lực cho mình vượt khó và đáp lại tấm chân tình bằng việc làm thiết thực nhất là tích cực tuyên truyền cảnh báo cho cộng đồng những chiêu thức của bọn tội phạm, cách phòng tránh từ các tình huống và những hệ lụy mà mình từng nếm trải, để bớt đi những số phận đắng cay tương tự. Nhiều năm đi tuyên truyền, tôi thấy chẳng cần “đao to búa lớn”, chỉ cần chia sẻ câu chuyện đời mình là khiến chị em đồng cảm, từ đó rút kinh nghiệm và đề cao cảnh giác. Có em gái đã ôm chầm lấy tôi xuýt xoa “may mà gặp chị sớm, suýt nữa em cũng bị mắc lừa”.
| Truyền thông phải bao phủ diện rộng nhưng cũng cần có trọng tâm, tập trung ở các điểm nóng và chú trọng phòng ngừa từ xa đối với nhóm phụ nữ yếu thế, có nguy cơ cao. |
| Việc làm thiết thực nhất là tích cực tuyên truyền cảnh báo cho cộng đồng những chiêu thức của bọn tội phạm, cách phòng tránh từ các tình huống và những hệ lụy mà mình từng nếm trải, để bớt đi những số phận đắng cay tương tự. |