Khơi dậy sức mạnh văn hóa

Phát huy giá trị cổ vật từ các sưu tập tư nhân

Hiện nay, ngoài hệ thống bảo tàng nhà nước sở hữu những đồ cổ được tiếp quản từ những cơ sở trước đây để lại như Trường Viễn Đông bác cổ, nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam hay những bảo vật mà triều Nguyễn để lại (ấn, kiếm, kim sách, đồ ngự dụng…), các cuộc khai quật khảo cổ của Nhà nước thu thập được, thì còn một số khá lớn cổ vật nằm trong các sưu tập cổ vật tư nhân.
Chiếc lư hương gốm thời Mạc. Ảnh: BÁ NGỌC
Chiếc lư hương gốm thời Mạc. Ảnh: BÁ NGỌC

Bên cạnh giá trị kinh tế, giá trị của cổ vật cũng càng được coi trọng, nhất là về mặt lịch sử, văn hóa, mỹ thuật. Nếu như những cổ vật trong các bảo tàng nhà nước đã được khai thác giá trị trong nhiều năm qua thì dường như cổ vật tư nhân chưa được khai thác bao nhiêu. Chúng ta không nên phân biệt giá trị của các cổ vật từ nguồn nhà nước hay các nguồn tư nhân, vì tất cả cổ vật đều là tài sản quý giá của tổ tiên để lại, do nhiều con đường đến tay hậu thế có khác nhau, nhưng đều có giá trị quý giá như nhau, cũng đều cần được khai thác để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, xã hội đất nước.

Thăng trầm cổ vật tư nhân

Chuyện xảy ra từ những năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ trước. Khi đó, chỉ có Nhà nước mới có quyền sở hữu và quản lý cổ vật. Vì thế, một số nhà sưu tầm cổ vật đã bị kiểm tra, thậm chí bị “kiểm tra hành chính”, một số cổ vật như trống đồng của các nhà sưu tập nổi tiếng bấy giờ ở phố Quang Trung, phố Huế được chuyển về cho hệ thống Bảo tàng nhà nước quản lý. Một số trống đồng được phát hiện trong lòng đất như trống đồng Bình Đà, tìm được ở cánh đồng Cổ Lỗi, thôn Dộc, làng Bình Đà, xã Bình Minh (Thanh Oai, Hà Nội) năm 1982 là chiếc trống Đông Sơn có giá trị, niên đại cách đây khoảng 2.300 năm, hiện được trưng bày ở Bảo tàng Hà Nội. Trống thì quý mà người đào được trống thì bị biết bao phiền lụy mà tiền thưởng không có.

Đã một thời với cách quản lý cổ vật mang tính áp đặt và hành chính như vậy nên nhiều cổ vật không được coi là sở hữu hợp pháp, thậm chí chuyên chở cổ vật trên đường mà bị phát hiện thì coi như chắc chắn bị tịch thu.

Trong bối cảnh như vậy, có một số nhà sưu tập cổ vật vẫn sưu tầm và vẫn có sự giao lưu, thậm chí buôn bán “ngầm” với nhau. Một số cổ vật lại được bán ra nước ngoài theo những con đường mà… có giời mới hiểu được. Tôi đã có thời gian đi Mỹ, Nhật Bản, Pháp… tham quan các bảo tàng và thấy được nhiều cổ vật Việt Nam đã được trưng bày ở đây có giá trị được mang sang trong vài chục năm gần đây. Lại có những bộ sưu tầm trống Đông Sơn rất đa dạng và phong phú được một số Việt kiều sở hữu…

Đầu những thập niên 1990 thì lại có một “phong trào” tự phát: nhà nhà đi đào tìm đồ cổ. Giai đoạn này, với kinh tế thị trường phát triển, đồ cổ có giá trị kinh tế, đã thúc đẩy việc mua bán đồ cổ và một số người buôn đồ cổ đã chuyên nghiệp hơn, tích cực thu mua. Giai đoạn này nhiều khu mộ Mường ở Hòa Bình, Thanh Hóa có các đoàn người kéo đến đào trộm thu được nhiều đồ gốm sứ thời Lý, Trần, Lê, các trống đồng loại II Heger. Nhiều khu mộ đã bị phá hủy, như khu mộ Mường lớn nhất thời Lê ở Đống Thếch, Kim Bôi, Hòa Bình đã bị đào và thu được nhiều trống đồng. Nay thì khu mộ vẫn còn dấu tích là những bia mộ bằng các tảng đá to lớn bao quanh có khắc minh văn nói về một dòng họ quan Lang được Vua Lê phong chức, được ban cho nhiều đồ quý chôn theo các vị thủ lĩnh. Vào giai đoạn này, cũng hình thành nhiều tốp thợ đi đào tìm cổ vật khắp đất nước mà trong giới họ được gọi là “đi sứ” với những cái máy dò kim loại tự tạo giá chỉ vài trăm nghìn mà đào đâu trúng đó. Họ xách máy đến dò trúng một chiếc trống đồng. May mà lúc đang đào dở dang thì người dân ở di tích khu mộ thuyền Phú Lương (Văn Nội, phường Phú Lương, quận Hà Đông, Hà Nội) phát hiện được, nên họ bỏ chạy và bỏ lại trống đồng. Trống này chính là trống Phú Lương đang trưng bày ở Bảo tàng Hà Nội.

Những đồ cổ trong các giai đoạn này bị đào bới rất nhiều, một số ít được Nhà nước thu được và bàn giao cho các bảo tàng trung ương và địa phương. Một số lớn hơn được các nhà sưu tập đồ cổ mua được, một số thì đã… cất cánh bay sang nước ngoài để rồi nằm trong các sưu tập cá nhân hay bảo tàng các nước.

Dấu vết vải trên mặt trống đồng Kính Hoa được phóng to (ảnh dưới). Ảnh: TRỊNH SINH

Dấu vết vải trên mặt trống đồng Kính Hoa được phóng to (ảnh dưới). Ảnh: TRỊNH SINH

Đã có cơ chế, cần trân trọng hơn

Với chính sách cởi mở của Nhà nước, cho phép tư nhân được thành lập bảo tàng tư nhân hay sở hữu các sưu tập cổ vật tư nhân, đã có một luồng gió mới trong việc làm “sống” lại các cổ vật, đưa cổ vật gần gũi với đời sống văn hóa, tinh thần của nhân quần. Có những cổ vật tuyệt mỹ lại hàm chứa bao câu chuyện lịch sử cha ông, nâng cao lòng tự hào truyền thống dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà qua ba đợt xếp hạng Bảo vật quốc gia, chúng ta đã chọn được các Bảo vật quốc gia rất xứng đáng của ba sưu tập tư nhân. Có những cổ vật độc đáo thuộc sở hữu tư nhân mà Nhà nước chưa có.

Một trong những giá trị mà cổ vật tư nhân đem lại là các tư liệu gốc để chứng minh lịch sử văn hiến của tổ tiên. Tôi xin đưa ra vài dẫn chứng:

Thứ nhất là dấu vết vải còn vương trên mặt chiếc trống đồng Kính Hoa. Do điều kiện thổ nhưỡng của nơi chôn giấu chiếc trống đồng này đã hơn 2.000 năm mà khi trống bị gỉ, nước đồng phai ra đã bao phủ mảnh vải còn sót lại, để lại hình dáng từng thớ vải được dệt. Chỉ cần chứng cứ này đã bác bỏ một tài liệu xưa khi miêu tả người Việt cổ là “Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là Vương” (Âu Lạc lõa thể diệc xưng Vương). Dấu vải quý giá này có thể là bằng chứng về việc người Việt cổ đã biết dệt vải và tạo ra được những bộ quần áo đẹp.

Thứ hai là một chiếc lư hương bằng gốm thời Mạc trong sưu tập tư nhân An Biên (Hải Phòng). Lư hương có phần chân có dáng một chiếc trống đồng Đông Sơn, lại có hoa văn mang phong cách của trống Mường (loại II Heger), có hoa văn liên quan đến Phật giáo… Chiếc lư hương này được chế tác vào cuối thế kỷ XVI, đã giúp các nhà sử học giải mã lịch sử: vào thời Lê Trung Hưng, khi mà đạo Phật thịnh hành ở vùng đất Hải Dương, người Việt vẫn còn lưu giữ biểu tượng của trống đồng Đông Sơn và trống đồng Mường trong suốt khoảng thời gian 16 thế kỷ. Đây là một cách để chống lại sự đồng hóa về mặt văn hóa. Người Việt cổ đã chống đồng hóa thành công, vẫn lưu giữ biểu tượng trống đồng trên đồ gốm nhiều thế kỷ sau. Hoa văn trên chiếc lư hương này cũng giúp các nhà khoa học định niên đại một dạng trống đồng Mường bằng cách so sánh hoa văn… Cho đến nay, chưa có chiếc lư hương gốm nào lại có dáng hình trống đồng đẹp như vậy, ngoài cổ vật tư nhân này.

Cổ vật tư nhân trong các nhà sưu tập có số lượng nhiều. Tôi đã từng tham quan một sưu tập cổ vật chứa đầy ba ngôi nhà ở vùng ven biển Quảng Nam, nhiều sưu tập khác nữa ở khắp các vùng miền.

Cổ vật tư nhân dẫu có thể được góp lại từ nhiều nguồn, có thể còn phải qua khâu giám định khoa học, nhưng đã thật sự là di sản quý, đóng góp vào tài sản chung của dân tộc. Có thể, từng bước cổ vật tư nhân cần được thống kê, hướng dẫn bảo quản của Nhà nước, khai thác giá trị của nó về lịch sử, văn hóa, biểu tượng, truyền thông… và du lịch nữa. Có như vậy, cái khối di sản cha ông mới được bảo tồn và phát huy giá trị đích thực của nó.