Sóng sau ngược sóng trước
Ở thập niên 70, với sự thịnh hành của dòng progressive rock, âm nhạc được phức tạp hóa lên rất nhiều, với những ảnh hưởng từ nhạc cổ điển, từ các khúc thức sáng tác và kỹ năng biểu diễn cao. Người trẻ cảm thấy rock không còn gần gũi và giàu ý thức phản kháng bằng dòng nhạc punk, với những gì đơn giản nhất: ba hợp âm cơ bản, âm thanh thô ráp, giận dữ, việc ghi âm đơn giản từ A tới Z trong hầm nhà, không trau chuốt, không chỉnh sửa từng câu nhạc, có sao để vậy...
Tương tự, không phải đến nửa cuối thập niên 90 mới có loại âm nhạc được sản xuất theo kiểu “xí nghiệp” với các boyband nặng tính thương mại. Ngay từ đầu thế kỷ 20 đã có các tổ hợp sáng tác chuyên nghiệp như Tin Pan Alley, sau đó ở cuối thập niên 50, trào lưu này quay lại với Brill Building.
Và trào lưu đi ngược lại những nghệ sĩ sáng tác chuyên nghiệp này chính là singer/songwriter. Có những giai đoạn, người ta mặc định rằng ca sĩ không viết được nhạc, chuyện đó hãy để dành cho dân chuyên nghiệp. Frank Sinatra, biểu tượng của làng nhạc Mỹ trong thế kỷ 20 là mẫu hình nghệ sĩ nổi danh hoàn toàn từ sáng tác của nhạc sĩ khác.
Nhưng rồi người trẻ lại lên tiếng, họ cho rằng cần phải thể hiện chính tác phẩm của mình viết ra mới đúng cảm xúc. Vậy là trào lưu ca sĩ kiêm sáng tác lại rộ lên để chứng tỏ điều này. Khởi thủy từ dòng nhạc folk/blues, các nghệ sĩ tiên phong như Woody Guthrie và Pete Seeger thường không quá quan tâm đâu là sáng tác nguyên thủy, đâu là biến tấu hay cóp nhặt. Họ cứ viết nhạc rồi hát, đôi khi mượn đoạn này, đoạn kia ở các bản dân ca. Một số nghệ sĩ nhạc jazz cũng tự sáng tác bài hát, dù rằng khá hiếm hoi như Nina Simone hay Billie Holiday.
Đến thời của rock ‘n roll, trào lưu này càng trỗi dậy mạnh mẽ. Giai đoạn cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 là thời hoàng kim của phong trào này, từ trào lưu du ca đến các phong trào phản chiến khác. Hình ảnh nghệ sĩ với cây guitar và đóa hoa cài trên mái tóc tràn ngập nước Mỹ và lan đến cả đến Việt Nam. Đến mức một số nhạc sĩ chuyên sáng tác trước đó như Carole King hay Neil Diamond cũng chuyển hướng sang biểu diễn và gặt hái những thành công đáng kể.
Cuối thập niên 80, dòng ca sĩ kiêm sáng tác bắt đầu chuyển trọng tâm sang các nghệ sĩ nữ, mở đầu là Suzanne Vega, kế tiếp là Tracy Chapman, K.D. Lang, Shania Twain, Sarah McLachlan, Sheryl Crow, Tori Amos... Giữa thập niên 90, Alanis Morrisette nổi lên như một hiện tượng tại Canada với album Jagged Little Pill.
Với làng nhạc Pháp, phong cách vừa sáng tác vừa biểu diễn này cũng khá thịnh hành. Các “nhà thơ - nhạc sĩ” như Charles Trenet (tác giả bản La Mer lừng danh) rồi Léo Ferré, Georges Brassens, Jacques Brel, Henri Salvador, Charles Aznavour... đã góp phần định hình nên dòng ca khúc Pháp (chanson) rất giàu chất thơ.
Chuyên nghiệp đối đầu cảm tính
Tuy nhiên, không phải ca sĩ nổi tiếng nào cũng có khả năng sáng tác và được công chúng ủng hộ. Thông thường, khi thực hiện album, người đứng đầu hãng đĩa, phụ trách nghệ sĩ và nhạc mục (artists and repertoire - A&R) sẽ trực tiếp tham gia trong quá trình chọn bài và chọn người sản xuất. Một số nhân vật trở thành huyền thoại trong làng nhạc nhờ có đôi tai nhanh nhạy và khả năng phán đoán thị trường rất tốt. Sự nghiệp của một số nghệ sĩ hàng đầu gắn liền với các nhân vật đứng sau lưng này. Họ không phải là người viết nhạc, cũng không phải là người sản xuất, hòa âm phối khí mà chỉ thẩm định và kết nối những gì mà kinh nghiệm và trực giác mách bảo rằng sẽ thành công.
Clive Davis đã trở thành huyền thoại, với việc mang đến cho công chúng những tên tuổi Santana, Aerosmith, Whitney Houston... Chính ông là người đã thuyết phục Barry Manilow ghi âm ca khúc I write
the songs dù nam ca sĩ ghét cay ghét đắng để rồi sau đó trở thành ca khúc gắn liền với tên tuổi của anh. Taylor Dayne là một thí dụ khác. Tin tưởng Clive và để cho ông chọn bài hát, cô đã có liên tục 10 ca khúc thành công. Nhưng rồi sau đó, khi quyết định tự sáng tác và không nghe lời Clive, sự nghiệp của Taylor chìm hẳn. Trường hợp của Kelly Clarkson cũng khá kinh điển, có thể được ghi vào sách giáo khoa của làng nhạc. Dưới sự giúp sức của Clive (chính là một đặc ân trong phần thưởng của quán quân American Idol), hai album Thankful và Breakaway cực kỳ thành công. Nhưng đến đĩa nhạc thứ ba, My December, cảm thấy mình đủ lông đủ cánh và muốn tự quyết định hướng đi cho bản thân, Kelly đã từ chối sự hỗ trợ từ Clive. Cô tự sáng tác toàn bộ ca khúc và kết quả, doanh số giảm 90% so với album trước. Kelly phải sa thải người quản lý và hủy luôn chuyến lưu diễn thế giới vì lượng vé bán ra quá thấp. Học được bài học đắt giá, Kelly quay lại bắt tay với Clive ở album thứ tư và có bài hit My Life Would Suck Without You và Already Gone, đều được nhạc sỹ chuyên nghiệp như Max Martin, Dr. Luke hay Ryan Tedder sáng tác. Sở dĩ các nghệ sĩ thường muốn tự mình sáng tác ca khúc, tự tạo ra chất liệu để biểu diễn vì với giới phê bình ở Mỹ, đây mới là điều được ngợi khen và tán thưởng.
Và “hiện tượng toàn cầu” Adele
Với Adele, làng nhạc có lại sự tự tin, niềm hy vọng vốn bị lụi tàn nhiều năm nay do ngành công nghiệp băng đĩa làm ăn ngày càng thất bát. Cuối mỗi năm, những con số tổng kết lại cho thấy doanh số từ bán đĩa lại sút giảm hơn năm trước, liên tục trong nhiều năm liền. So với thời hoàng kim của băng đĩa những năm đầu 2000, doanh số hiện đã giảm đến 60%. Khán giả đang chuyển hướng nghe trực tuyến (streaming). Nhưng với Adele, có đến 3,38 triệu người đồng ý làm việc mà từ khá lâu nay tưởng như lãng quên: mua album nhạc.
Để các con số trong bảng xếp hạng được khả quan hơn, tạp chí Billboard khá thức thời khi quy đổi lượt mua nhạc lẻ và nghe streaming thành album. Cụ thể 10 bản nhạc mua lẻ trên iTunes, Amazon hoặc 1.500 lượt nghe trên Apple Music, Spotify sẽ tính bằng một album.
Album 25 của Adele được ngợi khen với việc tập trung vào phần ca khúc và phần sản xuất (nhạc đệm, hòa âm, nhịp điệu... vốn đang là phần chính của âm nhạc hiện nay) trở thành thứ yếu. Puff Diddy đã nhận xét: “trong mọi thứ mà chúng ta nghe nói về ngành công nghiệp âm nhạc, về những thời khắc khác nhau, những nền tảng khác nhau, cuối cùng chỉ có một điều duy nhất quan trọng là bài hát. Chỉ có bài hát là tồn tại mãi. Adele đã viết những bản nhạc xuất sắc thật sự, vốn đã trở thành của hiếm ngoài thị trường”. Phản ứng của công chúng là đổ xô nhau đi mua đĩa nhạc, dù có thể xuất phát ban đầu từ hiệu ứng đám đông.
Và làng nhạc lại có thêm hy vọng tràn trề, từ thành công của mô hình “ca sĩ kiêm sáng tác”.
Với Adele, làng nhạc có lại sự tự tin, niềm hy vọng vốn bị lụi tàn nhiều năm nay do ngành công nghiệp băng đĩa làm ăn ngày càng thất bát.
Tính tổng cộng, album mới nhất 25 của Adele (ảnh bên) bán được 3,48 triệu album với số bài lẻ quy đổi thành album là 96.000 đơn vị cộng với 8.000 đơn vị từ nghe trực tuyến, còn lại là mua album trọn vẹn. Con số 8.000 đơn vị ở trên được nhân với 1.500 sẽ ra lượt nghe của ca khúc duy nhất trong album đang có mặt trên các dịch vụ streaming, bài Hello. Những con số hết sức ấn tượng mà Chris Anderson dự đoán trong cuốn sách The Long Tail, rằng không bao giờ làng nhạc có thể đạt tới nữa. Album 25 đã vượt qua lượng tiêu thụ 2,4 triệu đĩa No String Attached hồi năm 2000. Chưa hết, tiếng tăm từ 25 còn kéo thêm album 21 trước đây của Adele lọt trở lại vào top 10, vọt từ hạng 25 lên hạng 9.