"Tôi không khổ đâu"
Bước vào căn phòng 11 m2 ở ngõ Chợ Khâm Thiên (Hà Nội) của vợ chồng ông Ðồng, tôi không khỏi thắc mắc, vì sao phòng chật, nhiều đồ mà vẫn được sắp xếp gọn gàng đến vậy. Hỏi, ông Ðồng nói: "Chúng tôi làm chủ được chứ. Bà nhà tôi chỉ nhìn thấy lờ mờ, nhưng cảm nhận qua giác quan. Nó là thế giới của hai người mấy chục năm, chỉ có ngần ấy mét, phải thuộc từng cen-ti-mét ấy chứ".
Qua tâm sự, xưa ông Ðồng từng là "công tử" của một gia đình giàu có tận huyện Can Lộc (Hà Tĩnh). Thủa nhỏ, cậu bé rất được cưng chiều, lớn lên được học hết tú tài và được rất nhiều người "xí" gả con gái. Chẳng may thất thế, tài sản tiêu tán. Ðang từ một người ăn sung mặc sướng, bỗng "không xu dính túi", Ðồng không tránh khỏi hoang mang, hụt hẫng. Gia đình mỗi người mỗi nơi, Ðồng ra Hà Nội tìm chú ruột để nương nhờ. Năm đó, để đến được Hà Nội, cậu cuốc bộ 13 ngày đêm, mỏi nhừ chân, nào ngờ ông chú đã ra nước ngoài. Ông Ðồng nhớ lại: "Tôi sinh năm 1934, lúc đó là thanh niên, đường xa quá nên bị vắt kiệt sức, người gầy tong teo. Không tìm được người thân, tinh thần suy sụp, đang nằm khóc, định tìm đường quyên sinh thì chợt nghĩ ra cách...".
"Cách" mà chàng trai nghĩ ra, đó là đi tìm việc làm thuê. Ðến một nơi hoàn toàn xa lạ, lại chưa từng phải làm nặng nhọc, tìm việc gì đây? Sau vài ngày lang thang, cuối cùng Ðồng tìm được công việc bốc vác hàng ở bến tàu, có lúc bốc than ở rìa sông. Năm 22 tuổi, trong một lần được thuê đắp đê ở Gia Lâm, Ðồng bị tai nạn và bị thương hai mắt. Dù được chạy chữa và mổ đến ba lần nhưng không cứu nổi. Hai mắt cứ mờ dần, rồi chìm vào bóng tối.
Năm 1963, người ta đưa Ðồng lên Hà Bắc (Bắc Giang ngày nay) cùng sinh hoạt trong một trung tâm nuôi dưỡng thương binh nặng. Tại đó, Ðồng được học làm tăm tre. Cầm dao chẻ tre, Ðồng thường chém nhầm vào tay, rồi vót tăm cũng đứt tay. Cậu lo lắng không biết mình sẽ sống thế nào, có khi ngồi ôm bàn tay vấy máu mà thấy tủi phận. Mất một thời gian dài cậu mới quen việc cầm dao. Năm 1965 trung tâm giải tán, Ðồng quay về Hà Nội làm trong HTX Tăm tre 202. Năm 1973, Hội Người mù quận Hoàn Kiếm được thành lập, Ðồng xin vào sinh hoạt rồi được bầu vào Ban chấp hành. Thời gian cứ trôi, Ðồng sống lẻ loi một thân một mình trong căn phòng thuê được ở Hoàng Mai, cho đến khi là một người trung niên. Năm 1980, trong một lần họp ở Hội Người mù thành phố, Ðồng gặp người con gái gốc Huế tên Thu, đang sinh hoạt ở Quận hội Ðống Ða. Anh em cùng cảnh gán ghép Ðồng với Thu, dù đã "ưng cái bụng", cũng phải mất hai năm trời sống để hiểu nhau, Ðồng mới ngọng nghịu ngỏ lời. Khi ấy, "chàng" hơn "nàng" 20 tuổi, chỉ hỏi vỏn vẹn một câu chẳng lấy gì lãng mạn: "Em có lấy anh không?" và chờ đợi. May sao, Thu nhận lời. Giờ nhớ về kỷ niệm ấy, bà Thu trách yêu chồng: "Người chi mà đến tỏ tình cũng chẳng biết nữa, tự nhiên hỏi thế làm người ta ngượng...".
Tôi hỏi: "Thế ông bà có gặp trắc trở gì khi đến với nhau không?". Ông Ðồng trả lời: "Bà Thu cũng hoàn cảnh mà, viêm giác mạc từ nhỏ, chỉ còn chưa được 8%. Bà ấy ở trong Huế theo gia đình ra ngoài này, vất vả lắm. Các cụ bảo "nồi nào úp vung nấy", chẳng sai. Không ai cấm đoán đâu, chỉ là hai người cần chỗ dựa và thương nhau thì về sống với nhau. Tôi sống lang bạt nhiều, tôi hiểu làm cách nào để sống tốt với một người đồng cảnh...".
Chưa dứt câu hỏi "ông bà sống thế nào?", thì ông Ðồng đã sôi nổi: "Vợ chồng tôi công việc ổn định là bán chổi chít, có nhà, đi đâu cũng có nhau, tối về lại nghe đài, nghe nhạc. Tôi không khổ đâu, nhỉ?".
Hạnh phúc nẩy mầm trong gian khổ
Lấy nhau về, sinh hoạt đều vô cùng khó khăn. Bà Thu làm trong một xí nghiệp chế tạo phụ tùng ô-tô, xe máy. Còn ông Ðồng vẫn tham gia quận hội. Cuối năm 1983, ông bà có đứa con trai đầu lòng kháu khỉnh. Năm năm sau, cô con gái chào đời. Năm 1985, ông Ðồng dồn tiền, mua được căn phòng 11 mét trong ngõ Chợ Khâm Thiên làm chỗ trú ngụ. May sao, các con ông bà khỏe mạnh, nhưng ông Ðồng vẫn một niềm lo lắng, rằng có thể các con sẽ theo gen mẹ.
Và bất hạnh chưa chịu dừng đổ xuống cuộc đời ông bà. Do không nhìn rõ nên một lần ở xí nghiệp, bà Thu bị điện giật, suýt mất mạng, phải tốn rất nhiều tiền để chạy chữa mới lại sức. Rồi điều ông Ðồng lo lắng cũng đến. Học lên cấp hai, mắt người con trai của ông bà mờ dần rồi mù hẳn. Năm 1995, lại một tai họa khác, xưởng chế tạo nơi bà Thu làm việc bị phá sản. Trở về tay không, bà cùng chồng nhận chổi chít về mang đi bán rong kiếm tiền nuôi con. Ngày qua ngày, cứ chiều chiều người dân ở ngõ Chợ lại thấy đôi vợ chồng ông lão lụi cụi dắt nhau, chổi đeo ngang người đi bán, khi thành phố lên đèn mới về. Ðồ nghề của họ còn có chiếc làn đựng tăm tre, chai nước đun sôi để nguội uống dọc đường. Ngồi tiếp khách cùng chồng, bà Thu góp chuyện: "Mỗi "chuyến hàng" như vậy, nhiều lắm cũng kiếm được 100 nghìn đồng. Ðó là suôn sẻ thôi, chứ ngày mưa, đi rồi lại về không, mà chổi cũng bị ướt hết. Ông nhà tôi dù thuộc đường rồi, nhưng có hôm đi vào khu phố mới, bị lạc, dò dẫm đến khuya mới về tới nhà đó".
Qua tìm hiểu, sở dĩ ông bà chọn nghề bán chổi chít, là lúc đó nhu cầu của người dân khá lớn. Hội Người mù thành phố cũng có cơ sở sản xuất, đã và đang là nơi "kiếm cơm" của nhiều người. Ông Ðồng bà Thu cũng chớp luôn cơ hội. "Tui thấy cái chổi tuy nhỏ, nhưng rất cần với mọi nhà, và không bán chổi, vợ chồng tôi cũng chẳng biết bán cái chi kiếm tiền", ông Ðồng khoe. Giờ người dân thành phố dùng chổi chít ngày càng ít. Có khi ông bà dắt nhau, đi qua bao con phố, qua cả Hồ Gươm mà không bán được chiếc nào.
Hiện con trai ông bà là PCT Hội Người mù quận Thanh Xuân, con gái đang làm kế toán ở một công ty, đó là kết quả sau những nỗ lực không phải ai cũng đạt đến được, mà ông bà cùng với những cây chổi làm nên.
|