Người đã dâng hiến cả cuộc đời cho sân khấu Việt

Đã có ví von: nhà nghiên cứu Hà Văn Cầu, như một chiếc chìa khóa vàng hiếm hoi đã mở được cửa kho báu vô tận, phơi lộ rực rỡ vẻ đẹp dân gian (folklor) lộng lẫy nhất của sân khấu truyền thống Việt, đặc biệt là sân khấu chèo. Cuộc đời ông đã dâng hiến gần hết cho việc nghiên cứu và sáng tác kịch bản sân khấu truyền thống, ngay từ thập niên 50 của thế kỷ XX, kéo dài cho đến ngày ông về cõi.

Hề chèo là nhân vật mang đậm hồn vía chèo cổ (theo quan điểm của GS Hà Văn Cầu).
Hề chèo là nhân vật mang đậm hồn vía chèo cổ (theo quan điểm của GS Hà Văn Cầu).

Một đời tự học, nghiên cứu và sáng tác

Giáo sư (GS) Hà Văn Cầu không phải là người được đào tạo chính quy trong trường sân khấu danh tiếng ở trong nước và nước ngoài. Ông hoàn toàn tự học vì quá yêu mê sân khấu dân tộc, nhất là mê nghiên cứu sân khấu chèo và mê sáng tác kịch bản chèo, tuồng.

Ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước, ông đã góp phần sáng lập Đoàn chèo Cổ Phong, tiền thân của Đoàn chèo Hà Tây sau này, để từ đó, suốt 60 năm cuộc đời, ông tự luyện mình thành một chiếc chìa khóa vàng, tự khơi mở những giá trị sân khấu truyền thống Việt để thành công trên hai lĩnh vực vốn rất khó thành công của sân khấu Việt hiện đại, đó là nghiên cứu và sáng tác, hai lĩnh vực tưởng như rất khó dung hòa, với những nghiên cứu và sáng tác để đời.

Những công trình nghiên cứu của ông đều đạt ngưỡng nền tảng lý luận về sân khấu truyền thống: Tìm hiểu phương pháp sân khấu chèo (1969), Tấu thơ và tấu chèo (đồng tác giả với Thanh Tịnh, 1972), Tuyển tập Hề Chèo (1972), Mấy vấn đề về kịch bản Chèo (1979), Phong cách và thi pháp trong nghệ thuật sân khấu cải lương (1993, giải nhất nghiên cứu Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam 1994), Bình diện kỹ thuật trong diễn xuất chèo (2000)…

Ông từng được mời tham gia biên soạn về chuyên ngành sân khấu cho Từ điển Bách khoa Việt Nam và Bách khoa thư Hà Nội. Sách nghiên cứu sân khấu của ông được dịch ra tiếng nước ngoài, gây tiếng vang ở Pháp, Đức, Nhật Bản và Liên Xô.

GS Hà Văn Cầu vốn là người tự học tiếng Pháp và chữ Hán Nôm để đọc được sách. Ông còn viết và nghe, nói tiếng Pháp rất tốt. Ông từng viết tham luận, đọc và đối thoại bằng tiếng Pháp, nhằm “Đóng góp vào việc nghiên cứu hiệu quả gián cách của B.Brecht trong các nền sân khấu phương Đông” tại Hội thảo sân khấu quốc tế ở Đức. Tham luận nhiều phát hiện mới này của ông được Hội thảo chú ý và đánh giá rất tốt.

Những người nghiên cứu sâu về sân khấu thường hiếm khi có cảm hứng sáng tác, nhưng GS Hà Văn Cầu thì khác. Ông là tác giả của 30 kịch bản sân khấu chèo, tuồng, cải lương, kịch… mà phần lớn vẫn là kịch bản chèo. Nổi bật nhất là kịch bản: Nên vợ nên chồng, Sang sông, Người công dân số một… Và đặc biệt thành công là hai kịch bản: Tống Trân Cúc Hoa, viết năm 1961, Từ Thức, 1990, được viết trên nền văn chương truyền thống Việt, là truyện Nôm và tích trò sân khấu dân gian.

Giáo sư Hà Văn Cầu sinh năm 1927 tại quê lúa Thái Bình, đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001. Ông mất ngày 26-3-2016.

Bài học từ phương pháp nghiên cứu sân khấu của Giáo sư Hà Văn Cầu

Cũng chính là ông, Giáo sư Hà Văn Cầu, trong cuộc hội thảo cuối thế kỷ XX về vấn đề Kế thừa, phát triển cải lương Nam Bộ trên đất bắc, với tư cách người đề dẫn, ông đã góp phần lớn vào thành công của hội thảo, khi đưa ra ngay trong đề dẫn một phương pháp tiếp cận sân khấu cải lương từ góc nhìn văn hóa, và chiếm được ngay sự cảm tình và đồng thuận của các nhà nghiên cứu sân khấu trong Hội thảo. GS Hà Văn Cầu đã sử dụng phương pháp “nội soi văn hóa” trên tinh thần văn hóa Đào Duy Anh, để trả lời được câu hỏi “triết học cơ bản” cho sự “Bắc hóa” cải lương Nam Bộ, chính là ở vấn đề “cơ tầng văn hóa”. Ông tự đặt câu hỏi nghiên cứu và đã tìm cách trả lời thuyết phục: “Tại sao cải lương vốn là nghệ thuật sản sinh từ cơ tầng văn hóa đồng bằng Nam Bộ, ngay từ buổi đầu đã nhanh chóng phổ biến khắp cả nước, trong khi chèo là nghệ thuật nảy sinh từ cơ tầng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, lại không lan truyền được như vậy? Nhất là chèo đã tồn tại nhiều thế kỷ, trong thời gian ấy rất nhiều dân Bắc đã vào sinh cơ lập nghiệp ở miền Nam, vậy mà chèo vẫn chưa hề thấm được vào vùng đất mới này. Và miền Bắc vốn không phải cơ địa sinh thành của nghệ thuật cải lương, không có ca nhạc tài tử, không có hò vè Nam Bộ, không có nói thơ Lục Vân Tiên, vậy mà trong vòng vài chục năm cải lương đã trở thành một loại hình sân khấu mạnh ở miền Bắc”. Ông khẳng định, quá trình thâm nhập phương bắc của cải lương Nam Bộ đã được chính lịch sử sân khấu kiểm chứng như một kết quả giao thoa văn hóa vùng miền. Ông cho rằng, một cái nhìn văn hóa đúng cách sẽ giải mã được không chỉ sân khấu cải lương mà còn giải mã được sân khấu tuồng, chèo, kịch… và quan trọng hơn, có thể bảo tồn và phát huy nét tinh hoa văn hóa dân tộc của sân khấu truyền thống và cả sân khấu hiện đại Việt.

Chẳng phải cũng từ cách nghiên cứu văn hóa nội soi của ông với sân khấu, mà chính ông đã phát hiện Hề Chèo là nhân vật mang đậm hồn vía chèo cổ, là nụ cười thông minh hóm hỉnh hân hoan rộn ràng nhất màu sắc hội hè đình đám chân quê của nông dân Việt châu thổ Bắc Bộ. Những nhân vật Hề Chèo dân gian Việt, từ Hề Mồi, Hề Gậy, Hề Áo ngắn, Áo dài, Hề Tính cách… theo phân loại nghiên cứu của GS Hà Văn Cầu trong sách nghiên cứu Hề Chèo của ông, đã góp phần lớn trong việc “quẳng gánh lo đi mà vui sống” của cả dân tộc Việt trên đường phát triển, từ một xã hội nông nghiệp truyền thống đến một xã hội hiện đại. Những anh hề chèo ấy còn khăn gói lên đường viễn du trên sân khấu thế giới, trình diễn cho công chúng nước ngoài cảm nhận thêm một khía cạnh khác của tính cách Việt, là biết đùa và thích đùa để vui vẻ giã từ quá khứ…

Những phát hiện lớn trong nghiên cứu sân khấu ấy của GS Hà Văn Cầu đã thúc đẩy sự phát triển đúng cách của sân khấu Việt trong sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại. Vì thế, dẫu chiếc chìa khóa vàng là ông đã giúp thế hệ hậu sinh mở ra kho báu sân khấu truyền thống, dù đã bị mất đi theo nghĩa “thác là thể phách”, thì sẽ mãi mãi còn lại “tinh anh” trong các tác phẩm kịch bản sân khấu và trên hết, trong những công trình nghiên cứu sân khấu uyên bác của ông…, với sự đặc biệt thành công về phương pháp nghiên cứu.

Đó cũng là tâm nguyện kính dâng hương hồn ông của kẻ hậu sinh này.