Ngày ở xứ Xương Điền

Cơn mưa từ đêm trước vẫn chưa dứt hẳn. Nhưng bến cá nhỏ của người xứ Xương Điền (xã Hải Lý, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định) vẫn đón thuyền về. Vậy là thuyền vẫn đi biển từ sớm, mặc cơn mưa to như trút sau một đợt nắng nóng kéo dài. Phần đông là của người đi biển gần bờ. Thuyền nhỏ, mủng nhỏ chỉ đủ vừa một, hai người đi. Đi trong đêm và trở về vào ban sáng. Cuộc mưu sinh trên biển của mỗi người không đem lại kết quả giống nhau, cũng không chuyến nào giống chuyến nào.
Nhà thờ đổ Hải Lý (Hải Hậu, Nam Định). Ảnh: NAM ANH
Nhà thờ đổ Hải Lý (Hải Hậu, Nam Định). Ảnh: NAM ANH

Trước ngày vươn khơi

Chợ Xương Điền ban sáng tấp nập. Cá khoai, cá đù, tôm he… tất cả được thu mua nhanh chóng. Có thuyền chuyến này cũng thu được gần 2 triệu đồng. Đôi ba thuyền khác về cũng bán được dăm bảy trăm nghìn đồng. Mức thu như vậy cũng gọi là tạm ổn. Anh Hải cũng thu gom lưới đạp xe về nhà. Chuyến hôm nay anh không được như ý. Anh đi mủng muộn hơn mọi người, thu hoạch chỉ đủ bữa ăn cho hai vợ chồng. Phụ nữ ở Xương Điền ra bãi chờ thuyền về từ sớm. Có người chờ thu mua. Có người chờ chồng về để phụ tay gỡ cá. Chị Đoàn Thị Hồng, vợ anh Hải, trong lúc chờ thuyền về lại xắn tay giúp nhà hàng xóm giỡ nốt đám cá sót lại trong lưới sau khi đã bán hết cá lớn. Nhà chị cũng như nhiều gia đình trong xứ này, bấy lâu nay chỉ trông vào nghề biển. Cá tôm thì ở đâu cũng ít dần, giờ cũng có thêm nỗi lo vì chuyện mất lưới, mất chỗ đánh bắt.

Ở một góc khác, khác với sự rộn ràng của ghe gần bờ, ông Nguyễn Văn Tự vẫn đang chậm rãi mang lưới xuống tàu. Mấy hôm nữa ông mới ra biển. Ông đang chờ những anh em cùng tàu về tập hợp để bắt đầu một chuyến biển dài ngày. Ông Tự đã đi biển hơn 30 năm. Trước kia, như nhiều người Xương Điền, ông chủ yếu đánh bắt gần, tới các đảo lân cận như Cô Tô, Thanh Lân. Có điều nguồn thu không cao. Hơn chục năm trước, ông gọi anh em hùn vốn, đóng con tàu công suất lớn, quyết tâm đi xa bờ. Không còn làm nghề đi lộng, đêm đi sáng về, cả xã Hải Lý bây giờ có hơn 20 tàu lớn. Mọi người tập hợp nhau lại, chung sức chung lòng cùng ra biển. Ông Tự được tín nhiệm bầu làm trưởng đoàn. Vươn khơi xa, có tổ chức, việc đánh bắt vừa an toàn hơn, vừa hiệu quả hơn xưa.

Ông Tự đi biển nối nghề cha, đến lượt hai con trai của ông cũng đi biển. Giờ ba bố con đều đi khơi xa, đi lâu mới về. Sáng nay, như mọi lần, trước mỗi chuyến đi biển của chồng, của con, bà Hải, vợ ông Tự luôn là người tự tay chuẩn bị mọi thứ. Trời vừa ngớt mưa, bà ra vườn hái rau để chuẩn bị cho chồng con bắt đầu hành trình dài ngày. Lênh đênh trên biển, rau xanh luôn là thứ thiếu thốn nhất. Mấy chục năm, lần nào cũng là tự tay bà gói ghém đồ dùng như vậy.

Ông Tự chỉ ra khơi, bảo tuy có chút mưa nhưng thời tiết này đang tốt, sáng nay hai đứa con ông đã ra biển. Ông Tự đang hoàn tất các khâu kiểm tra lưới cuối cùng. Mùa này cá đao, cá thu sẽ nhiều. Biển cả “ăn” nhất về mấy tháng cuối năm từ tháng 9 đến tháng 2. Tầm này ra khơi tàu hứa hẹn sẽ được mùa cá lớn.

Trời mưa to, nước lớn, đám mạ gieo chưa thể cấy xuống đồng, bà Hải lo việc trong nhà, rồi cùng ông Tự sửa sang, vá lại đám lưới. Cứ luôn chân luôn tay suốt buổi. Gỡ xong lưới, bà lại quay ra tất bật với nồi cám heo. Nhưng bà cũng bảo đi thuyền to, máy lớn, tuy xa nhà lâu hơn nhưng kinh tế cũng đỡ vất vả. Bà mới có thời gian chăm lo nhà cửa. Chồng con làm biển, bà làm đồng. 5 sào cấy lúa, một mảnh vườn trồng rau, nuôi thêm ít gà, lợn, đủ cho cuộc sống thường ngày. “Trước kia ông ấy làm gần bờ thì vốn ít hơn, ông ấy đi thì mình cũng phải đi. Giờ mình ở nhà có thời gian lo việc đồng áng. Chứ ngày trước tôi cũng cứ phải đi đi về về”.

Buổi chiều, hai ông bà ra nhà thờ nguyện. Chuyến nào chồng, con đi biển là chiều ấy bà Hải lên nhà thờ cầu nguyện xin Chúa ban phước, bảo vệ cho chuyến đi mọi người bình an. Hôm nay ông Tự chưa ra biển, thế nên bà có chồng cùng đi.

Biển cả sóng gió, nhưng ngày trước khi ra khơi, mọi thứ bình yên đến lạ. Ông Tự bảo, ông sẽ vẫn gắn bó với nghề biển, sẽ còn phấn đấu đóng tàu to nữa, để vươn khơi được xa hơn, đi được an toàn hơn.

Giành đất với biển

Nhắc tới lịch sử của nhiều vùng đất ven biển nước ta là nhắc tới lịch sử quai đê, lấn biển, thau chua rửa mặn hàng trăm năm của biết bao thế hệ. Nhưng lịch sử lấn biển của con người, cũng là lịch sử của không ít lần biển đòi lại đất liền, vùi đất đai, làng mạc trong những cơn sóng gió. Những chứng tích còn lại trên bờ biển xã Hải Lý bây giờ cũng là một trong số những câu chuyện minh chứng cho điều ấy. Nhiều năm nay, không ít người tìm về Hải Lý tham quan ngôi nhà thờ đổ còn lại ngay bên chân sóng mà không biết rằng, trước đó, chung quanh ngôi nhà thờ này đã từng có một làng chài đông đúc. Đấy là làng chài Xương Điền. Người xứ Xương Điền theo từng đợt sóng biển ăn sâu vào đất liền mà lui dần vào trong, gây dựng lại làng chài, tiếp tục cuộc sống đời nối đời của những con người bám biển.

Trời chiều mưa đã tạnh. Nắng đã lại lên. Ông Thuận với ông Dục cùng sang nhà ông Thế rủ nhau chuẩn bị đi đun te (đẩy cà kheo) bắt moi, bắt tép. Ba ông ở gần nhau, nhà chỉ cách nhau vài bước chân, lại cùng chung trong đội Cà kheo của xã Hải Lý. Hôm nay biển đẹp, chiều hết mưa, rủ nhau đi đun te để cho vui là chính. Dù gì, cái nghề này cũng là nghề truyền đời từ bao lâu, các ông đã quen từ thời bé. Dù chỉ là nghề phụ, nhưng cũng là thứ nghề để kiếm sống, ai giỏi thì vào mùa cũng có thể có thu nhập cao, cao hơn hẳn một nghề chính như nghề muối. Te là một loại lưới được gắn vào hai thanh tre bắt chéo nhau để xúc cá tôm. Người ta dùng cà kheo để đi vào những chỗ nước sâu hơn đun (đẩy) te. Hải Lý nổi tiếng với nghề đi te này.

Ông Thế nói giờ hầu hết chỉ còn người già đi đun te, chứ “thanh niên đã bỏ đi làm công ty cả”. Cứ túc tắc ra bãi, có buổi cũng kiếm được vài trăm nghìn đồng. “Nếu giỏi đi được ngày 3 triệu cũng có, dăm bảy trăm cũng có. Những ngày biển đẹp thì tôm cá nhiều. Nghề chúng tôi chờ biển im giời lặng gió. Biển có chỗ có tép moi, có chỗ thì không có. Tép nó chui xuống cát, nước đẹp nó nổi lên….”, ông Thế mô tả. Tháng 8-9 âm như thế này là mùa đun nổi, đi te cũng dễ kiếm tiền hơn.

Ngày trước, cách đây hơn 70 năm, làng Xương Điền không ở sau con đê biển kiên cố này. Làng ở xa mãi ngoài kia, nhà thờ cách con đê này tới mười mấy cây số, bây giờ nhìn chỉ thấy biển. Ngày ấy, nhà thờ Trái tim chưa thành nhà thờ đổ bây giờ. Người làng bảo thế. Hồi ấy đê biển đắp bằng đất, bao phen sóng biển dập dồi, người làng phải lui dần vào trong, dựng nhà thờ mới. Tới lần thứ ba mới yên ổn. Làng xưa giờ là bãi biển, thành bến cá cho thuyền về. Ngôi nhà thờ cũ giờ được gọi là nhà thờ đổ, vẫn hiện diện như một phần lịch sử của làng chài cổ.

Mỗi ngày trôi qua, cuộc sống của làng chài bây giờ đã khác nhiều. Những con đường nông thôn mới, những ngôi nhà khang trang, những đầm tôm trải dài… Nhưng bên bờ sóng, mỗi ngày vẫn trôi qua thật bình dị. Những chiếc thuyền nhỏ vẫn lựa sóng mà ra lộng mỗi sớm, khi những chiếc tàu lớn đang ở khơi xa. Phụ nữ vẫn ở lại chờ chồng đi biển về. Người đi hay người ở lại, tất thảy đều mang hy vọng về một ngày mới tươi sáng từ biển cả…

Làng chài Xương Điền thuộc xã Hải Lý, huyện Hải Hậu ngày nay là kết quả của công cuộc quai đê lấn biển của người dân từ những năm đầu thế kỷ 18. Ban đầu người dân gọi với cái tên “Cồn Cát Bể”, về sau hình thành làng chài Xương Điền. Năm 1920, xã Xương Điền được thành lập thuộc tổng Tân Khai.

Năm 1948, xã Xương Điền hợp với lý Hòa Định và lý Văn Lý thành xã Tân Hưng thuộc khu III, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.

Năm 1952, xã Tân Hưng đổi tên là xã Hải Lý cho đến ngày nay.