Rồi bà nhẹ nhàng bảo "Vào ăn cơm nhanh lên còn ra ngoài đình". Tôi hỏi lại "Làm gì hả bà?". "Còn làm gì nữa" bà tôi tiếp "Tao nghe phổ biến tối nay ai cũng phải ra ngoài đình làng". Với bọn trẻ chúng tôi "Ai cũng phải ra ngoài đình làng" có việc gì chẳng quan trọng, điều sướng nhất lại là có dịp để tha hồ nghịch. Tôi tưng tửng ra mặt, trong đầu đã phác nhanh trò chơi mới tối nay. Bà tôi nghiêm mặt đe "Mày dè chừng đấy. Phá phách gì người ta nhốt lại tao không đi xin cho nữa đâu ".
Sân đình tối nay nhộn nhịp người lớn người bé, tiếng hỏi nhau có chuyện gì ầm ĩ. Đèn đóm chao qua chao lại hệt như có hội. Lợi dụng đám đông còn đang láo nháo, tôi kéo tay thằng Việt, thằng bạn thân nhất ở làng, bảo nó "Mình trèo lên cây nhãn góc đình đi". Thằng Việt rụt rè hỏi lại "Trèo lên đấy làm gì? Mà tao sợ bị đánh lắm". "Hứ. Sợ cái đếch gì. Mình lên đó phải bí mật chứ" tôi ghé sát vào tai nó "Tha hồ ăn nhãn, mày ạ".
Thằng Việt dù có lưỡng lự nhưng không cưỡng được cái kéo tay của tôi cùng từng chùm nhãn lắc lư mời gọi, nó ậm ừ quan sát mọi người rồi mạnh bạo hẳn lên "Trèo thì trèo".
Chúng tôi chọn đám lá rậm rạp nhất của cây nhãn rồi ngồi giấu mình trong đó. Thằng Việt ngồi thu lu chỗ chạc ba trông tròn như một cái thúng. Tôi gãi gãi đầu bắt chước động tác của Tôn Ngộ Không đưa tay gãi gãi tai, gãi gãi mặt, cười "hí, hí". Nó cũng "hí hí" cười theo. Tôi bảo thằng Việt "Tha hồ chén mày nhỉ". Mặc kệ dưới sân đình giờ này ra sao thì ra, chúng tôi mỗi thằng một chỗ ngồi chắc chắn, tay phải với bên phải, tay trái với bên trái, những quả nhãn chín mòng lần lượt được chúng tôi xử lý một cách êm thấm. Trước tiên là quả nhãn được đưa vào miệng, sau miếng cắn khéo đến nỗi không rớt một giọt nước ra ngoài, tiếp đó là cả vỏ và hột được bỏ vào trong áo may ô. Trước khi trèo lên cây nhãn tôi và thằng Việt đã kịp dùng dây chuối buộc một vòng bụng. Có cái túi ấy thật tiện lợi. Mọi dấu tích của "vụ ăn trộm" được tính toán chu đáo. Hai thằng với cả "thiên đường riêng" thỏa thích. Chừng lâu lâu, vẻ im ắng dưới sân đình làm thằng Việt lo ngại, nó thì thào "Hay là họ về cả rồi?". Tôi nghiêng đầu nghe ngóng: "Mày chỉ được cái hãi vớ vẩn. Đấy, có tiếng người đang nói đấy". Quả tình đám lá rậm quá nên hai thằng không nhìn được những gì đang diễn ra bên dưới sân đình. Tôi giục thằng Việt "Ăn đi mày ạ. Khắp làng mình cây nhãn này quả to và ngon nhất đấy". Rồi tôi an ủi nó "Cũng phải đợi mọi người về hết tao với mày mới xuống được. Giờ mà lộ ra họ đánh què cẳng".
Tiếng người nói dưới sân đình bỗng to hẳn. Tiếp đó rộ lên như có ai đang mắng mỏ. Tôi bảo thằng Việt "Mày lui sang cành bên kia ngó xem họ làm gì ầm ĩ thế". Thằng Việt sau hồi ngó nghiêng nói vọng sang "Tao chẳng hiểu gì cả. Lạ lắm".
Đúng là lạ thật. Tôi vén cành nhãn che ngang mặt cố cúi xuống nhìn trông ra ngoài sân đình. Dân cả làng ngồi đen ngòm thành từng đám.
Ngay trước cửa đình có ai đó đang đứng nói cạnh một chiếc bàn mộc. Cây đèn bão đốt bằng dầu ma-dút tỏa khói làm người đứng nói chốc chốc chụm tay khúng khắng ho, nhưng thái độ qua cử chỉ có nhiều phần quyết liệt. Tôi tự nhiên nghe rất rõ "Với những người đã biến chất sinh hủ hóa, tôi đề nghị bà con cần lên án. Chúng ta đấu tranh vì quyền lợi và sự bình đẳng nam nữ. Một người chồng, một người cha như vậy sẽ không có chỗ đứng trong giai cấp chúng ta". Đám đông nhao nhao hẳn lên. Có ai đó nhanh tay cầm cây đèn bão soi xuống gầm bàn. Ở đấy có một người đàn ông ngồi ôm gối, đầu cúi gầm. Cây đèn bão được đưa sát vào hơn nữa, người đàn ông tội lỗi như muốn chui vào gầm bàn. Đám người ồn ào "Phải kiểm thảo. Phải loại bỏ". Có ai đó ném một vật gì vào gầm bàn, tức thì nhiều thứ được ném vào đó. Bị kích động bởi sự kiện đầy hiếu kỳ ấy, tôi hét to "Việt! Cùng tao ném vỏ nhãn vào tên kia". Hai thằng chúng tôi vừa hò hét vừa lôi từ trong bụng áo và ném thẳng vỏ nhãn về phía trước. "Có kẻ ăn trộm nhãn đình! Có kẻ ăn trộm nhãn đình!". Mọi người đã phát hiện ra chúng tôi và đổ xô về phía cây nhãn. Từ gầm bàn, người đàn ông tội lỗi cũng ngẩng mặt lên. Ánh sáng đỏ lòe của cây đèn bão cũng đủ để nhận mặt người ngồi như nấp dưới gầm bàn. Tôi kêu lên "Hình như thầy mày". Thằng Việt cũng kêu lên "Thầy tao!". Mọi người dưới sân đình chen nhau í ới, có người còn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đã làm đứt cuộc kiểm thảo. Lợi dụng cơ hội lẫn lộn đó, tôi giục "Chuồn mau!". Rồi hai tay ôm thân cây nhãn tụt nhanh xuống ngỡ rách cả đùi. "Nhưng thầy tao?" thằng Việt hỏi lại "Còn thầy tao mà". Tôi hét lên: "Thầy thầy cái gì. Không chuồn mau họ kéo đến đánh chết bây giờ". Hai thằng tụt xuống, chạy biến vào bóng tối.
* Tách lối mòn ven cánh rừng khét trơ cành cây cháy vì bom, tôi dìu thằng Việt ngồi tựa vào một hốc đá nhám khói đen sì. Nó đang lả đi, mặt tái dại vì mất nhiều máu. Nhìn nó đầu ngoẹo lệch sang bên phải, mồm há ra thở, tôi vừa thương lại vừa giận. Đêm hôm qua nó thò đầu vào võng tôi, nói đủ nghe "Mai còn được nghỉ. Mày báo là tao đi kiếm rau nhé". Tôi ậm ừ "Mày đi đâu". Nó nói lại "Bảo tao đi kiếm rau là được". Đêm yên tĩnh hiếm hoi ngoài mặt trận đã nhanh chóng lôi tôi vào giấc ngủ.
Thằng Việt chợt cựa mình nhăn mặt ú ớ. Tôi cố nuốt nước mắt nhìn nó và lo ngại thấy chiều đang sầm sập tới. Gió chiều thổi rờn rợn thoảng lên một thứ mùi tanh tanh lờm lợm. Thằng Việt hết ú ớ. Tôi giật mình thấy nó mở mắt nhìn tôi trừng trừng như muốn nói. Tôi ngồi xuống sát vào người thằng Việt. Một tay đỡ người nó đang ưỡn lên từng cơn co giật đau đớn, một tay tôi lần lần cố tìm cách tháo chiếc bi đông giắt bên dây lưng. "Mày uống tí nước cho lại sức". Những giọt nước cuối cùng trong bi đông được cả hai tay tôi dốc ngược như đổ vào miệng thằng Việt. Nó chép chép miệng, cục yết hầu đưa lên đẩy xuống to và nhọn, trông như một cái trục khuỷu của tay quay cơ khí. Tôi động viên nó "Đau lắm hả? Tao sẽ đưa được mày về đơn vị". Nó gật gật đầu, mặt méo xệch. Chiều nhập nhoạng phủ một màn ám khói lên mặt thằng Việt. Từ rất xa vọng lại những chuỗi nổ của bom.
Tôi nhỏm dậy định xốc thằng Việt đi tiếp. Thằng Việt bỗng buông thõng người, nó níu tay tôi ý kéo ngồi trở lại, nói phều phào "Không...không... kịp... nữa... nữa... đâu... mày... mày...cho... tao... nói... nói...". Trời tối hẳn...
* Ông Oa vội giơ bàn tay bịt ngang miệng tôi, giọng ông như sắp khóc "Đó là năm bao nhiêu hả chú?". Tôi trả lời giọng cũng nghèn nghẹn "Em làm sao quên được. Đấy đang giữa mùa mưa năm Bảy mốt, mùa ấy ở quê mình nhãn cũng bắt đầu chín". Ông Oa bóp chặt miệng mình, đầu cúi xuống che những giọt nước mắt đang ứa ra từ khóe mắt. Chúng tôi cùng im lặng.
Ngoài kia nắng mang màu hoa lý và phủ vàng nhẹ lên khắp các đầu cây. Tiếng ran ran của bầy ong càng làm cho không khí như bức bối thêm. Mùi nhãn chín dâng lên thơm ngọt một cách kỳ lạ. Tôi chợt chành chạnh buồn và ái ngại nhìn ông Oa đang quệt tay lau nước mắt. Những giọt nước mắt chảy nhòe trên gương mặt sạm nắng trông lại càng áy náy. Một người đàn ông từng trải và nhiều lận đận đang khóc. Lâu sau ông Oa mới hỏi tiếp "Chú cùng ở với thằng Việt nhà... nhà tôi được mấy năm?... Cái thằng!".
Ông Oa mếu máo khóc thành tiếng "Khổ!"
Không hiểu ông Oa kêu gì khổ hay ai khổ. Tôi lảng mắt nhìn ra ngoài cố kìm nén cảm xúc ngày trước đang dội về thúc thúc. Cố giấu đi lời trách móc ông Oa mà khi gặp lại ông tôi mấy lần toan trách. Ông Oa cũng quay mặt nhìn ra ngoài sân. Ngoài ấy từng đàn ong bay rối rít làm xua đi cái không khí u uất trong nhà. "Chú. Chú bảo cháu nó có... có... tha thứ cho tôi không? Cả chú nữa?
Chú có tha thứ cho tôi không?". Giọng ông Oa đã tỉnh hơn, dịu nhẹ hơn nhưng khẩn thiết.
Ba hôm trước, tôi tình cờ gặp được ông Oa sau ba mươi sáu năm ông mất tích. Câu chuyện "kiểm thảo" tối năm nào ở ngoài sân đình cả tôi, cả làng Nhĩ Phố đã quên phắt. Cơn lốc chiến tranh cùng bao sự biến đổi đã không cho phép ai kịp nhìn lại những gì của quá khứ. Sau hồi tru tréo của dân làng phát hiện ra có kẻ ăn trộm nhãn đình, tôi và thằng Việt cắm đầu cắm cổ chạy, cuộc "kiểm thảo" bị ngừng lại đột ngột và chuyển hướng sang cuộc truy lùng "kẻ trộm". Đến khi chả ai bắt được ai và mọi người ai về nhà nấy, cuộc "kiểm thảo" tình cờ bị giải tán khi chưa có hồi kết. Lúc đó dân làng mới phát hiện thấy ông Oa không còn ngồi như rúc dưới gầm chiếc bàn mộc nữa, cũng không ai thấy ông Oa trốn về nhà. Mấy ngày tiếp theo vẫn bặt tin. Những lời đồn đại bắt đầu thầm thì ở mọi ngõ ngách. Người thì bảo "Tay Oa dắt gái bỏ làng đi trốn rồi". Người thì nói: "Dám. Có mà gieo mình đâu đó". Thằng Việt ngồi khép nép trên giường nhà tôi, mắt ráo hoảnh. Bà tôi lựa lời an ủi thằng Việt "Thầy mày hồi bé được tao cho bú nhờ đấy. Gớm, nhay gì mà nhay khiếp thế". Rồi thằng Việt ra về, nó đứng đầu ngõ nói với tôi: "Bu tao mấy hôm nay toàn khóc". Rồi nó nhìn tôi van nài "Mày còn chơi với tao chứ?"...
Ông Oa chợt lên tiếng phá ngang cái vẻ trầm u giữa tôi và ông "ở cùng đơn vị với chú, cháu nó có nhắc về tôi không? Nó vẫn coi tôi là thầy nó chứ?". Tôi không trả lời mà đầu gật gật. Đám khói thuốc lào bay òa vào mắt, tôi ậm è và nước mắt ứa ra. Ông Oa quay vội đi, lấy tay che ngực ho mấy tiếng...
* Tôi cùng mấy thằng trong tiểu đội đứng lặng bên mộ thằng Việt. Đống đất mới lấp còn tươi màu đỏ. Trên mộ nó, tôi đã khéo léo chôn một cây cọc nhỏ làm dấu. Không có hoa, chỉ vài cành lá nhuốm vàng sót lại, trông đơn điệu hết chỗ nói. Tất cả im phăng phắc. Tiếng chính trị viên đọc rành rọt "Căn cứ vào kỷ luật chiến trường, nay cảnh cáo quân nhân Khiếu Quang Việt đã vi phạm...". Tai tôi ù lên không còn nghe gì được nữa. Đống đất nhòe đi và biến mất. Tôi hốt hoảng trấn tĩnh lại: "... Tôi thấy thật là xấu hổ khi trong đơn vị lại có một quân nhân tự do. Các đồng chí nên nhớ rằng chiến trường là nơi rèn luyện cao nhất. Bất cứ một hành vi vô kỷ luật nào cũng sẽ được bài học như bài học của quân nhân Việt". Tiểu đội lặng lẽ giải tán, tôi ngoái nhìn nấm mộ thằng Việt một lần nữa "Việt ơi, sao mày lại chết?". Sau nhiều thương vong qua các trận đánh, đơn vị tôi được lui về phía sau củng cố. Đấy chính là cái lý do để xảy ra chuyện thằng Việt. Lúc ngồi cùng nhau bên hốc đá, tôi quàng tay giữ người thằng Việt giúp nó gắng qua cơn đau. Nó vất vả nói: "Hai... hai hôm trước... mày có... có nhớ không? Lúc... lúc qua đỉnh đồi 360... tao... tao thấy...". Thằng Việt nhăn mặt, tôi bảo nó "Mày đừng nói nữa. Nói nhiều mất sức. Gắng chịu đau để tao cõng mày về đơn vị". Nó lắc đầu mỏi mệt "... Tao thấy... dưới lùm... lùm cây...". Tôi gắt to "Thì ra là mày..." Thằng Việt níu chặt lấy tôi "có... có hai cô gái. Họ... họ sốt rét nặng lắm... tao...". Thằng Việt không nói nữa, hai mắt nó mở to vẻ mãn nguyện. Hồi lâu, hình như nó mỉm cười. Trong chút sáng sót lại của cánh rừng trụi lá, gương mặt nó hớn hở. Tôi thầm thì "Họ còn gì để ăn không?". Thằng Việt không nói. Tôi tiếp "Mày... mày tệ lắm. Có thế mà cứ giấu".
Tôi không đưa được thằng Việt còn sống về đơn vị. Dường như còn lại chút sức lực của mình, nó đã dành hết cho mấy câu nói với tôi. Tôi cõng xác thằng Việt đi bước thấp bước cao về đơn vị chịu kỷ luật.
Ngày hôm sau tôi xin phép chính trị viên qua đồi 360. Đồng chí chính trị viên chậm rãi nói "Kỷ luật của chiến trường không phải là trò đùa. Cậu nên nhớ chính cậu, đại đội chưa nhắc đến đấy" Anh khoát tay "Đồng ý cho cậu đi hai tiếng".
Đó là một kho nhỏ có từ năm 1967. Ban đầu nó làm nhiệm vụ bảo quản lương thực, sau bảo quản quân trang do các đơn vị gửi lại trên đường giao liên. Xét thấy không cần thiết lắm nên binh trạm đã bớt người đi. Khi thấy tôi vào, cả hai nữ đồng chí cùng hỏi: "Anh Việt đâu rồi, đồng chí?". Họ khá ốm yếu, da xanh tái và giọng nói vẻ đứt hơi. Tôi lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế được làm bằng thùng đạn, nói mà không dám nhìn họ "Việt chết rồi. Chết hôm qua, lúc ở đây về". Cả hai như chồm người về phía tôi "Đồng chí nói bậy. Anh Việt hôm qua ở đây còn khỏe cơ mà". Tôi mếu máo "Việt chết thật mà. Nó vướng lựu đạn cài dưới mé đồi". Hai cô nhìn tôi trừng trừng rồi cùng khuỵu xuống mà ôm choàng lấy nhau, họ gào lên "Anh Việt ơi! Bọn em hại chết anh rồi. Tại bọn em". Tôi đỡ hai cô gái lên, nhìn thẳng vào họ "Tôi... tôi không hiểu". Một cô bình tĩnh hơn, nói "Mấy hôm qua đây, anh Việt thấy bọn em sốt quá, anh ấy bảo để anh ấy lo cơm nước giúp. Chiều qua... Anh Việt ơi... chiều qua anh ấy mang quần áo của chúng em đi giặt...".
(Còn nữa)