Hơn hai thập niên kiến tạo nền tảng
Mặc dù những thành phần đầu tiên đã xuất hiện từ đầu những năm 2000, nhưng phải đến giai đoạn sau năm 2010, hệ sinh thái start-up sáng tạo mới hình thành và được công nhận trong các văn bản quy định chính thức của cơ quan quản lý nhà nước. Giai đoạn 2013-2015, Chính phủ bước đầu tập trung xây dựng hành lang pháp lý về phát triển thị trường khoa học, công nghệ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thế hệ doanh nghiệp mới, giàu sức sáng tạo phát triển, khai phá và mở rộng thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Tới năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 844/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Đây là văn bản chính thức đầu tiên ở Việt Nam liên quan tới khởi nghiệp. Và từ đó đến nay, cùng với các chính sách của Nhà nước liên quan đến mục tiêu xây dựng kinh tế tri thức bắt kịp cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, start-up sáng tạo tiếp tục trở thành xu hướng phát triển mới, thịnh hành ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực.
Thực tế, từ những ngày đầu tiếp cận với khái niệm “hệ sinh thái khởi nghiệp”, chúng ta đối diện với những vấn đề “ngổn ngang” mà một cá nhân/tổ chức start-up gặp phải. Đó là hàng loạt câu hỏi không dễ trả lời như: Sản phẩm, thị trường ra sao? Vốn ở đâu? Công nghệ như thế nào?… Song đây cũng là tiền đề hình thành nên nhận thức cơ bản về một hệ sinh thái start-up phát triển bền vững, bao gồm các thành phần quan trọng:
Thứ nhất, start-up là đầu tàu đổi mới sáng tạo, tạo ra công nghệ và sản phẩm đột phá. Thứ hai, nhà đầu tư, bao gồm nhà đầu tư thiên thần (angel investor), quỹ đầu tư mạo hiểm (VC), quỹ đầu tư tư nhân (PE), các tổ chức đầu tư lớn. Thứ ba, các tập đoàn công nghệ lớn (Big Tech), đóng vai trò đối tác chiến lược, nhà đầu tư. Thứ tư, thị trường vốn, nơi cho phép start-up huy động vốn từ công chúng, bảo đảm tính thanh khoản và sự phát triển lâu dài. Thứ năm, các trường đại học, viện nghiên cứu, vườn ươm… nơi cung cấp cố vấn, kết nối, thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng vào thực tế, hỗ trợ gọi vốn… Thứ sáu, các cơ quan hoạch định chính sách, quản lý nhà nước, giữ vai trò quan trọng trong việc ban hành chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho tất cả các bên.
Sau giai đoạn phát triển “có sinh, có tử”, theo số liệu từ Bộ Khoa học và Công nghệ, từ con số khoảng 1.800 doanh nghiệp start-up vào thời điểm năm 2016, đến nay hệ sinh thái start-up sáng tạo tại Việt Nam đã có khoảng 3.800 doanh nghiệp.
Tỷ lệ doanh nghiệp tồn tại được và mở rộng quy mô trên thị trường đã chứng minh cho nhận định của các chuyên gia là chính xác: Chỉ có chưa đến 1% số start-up phát triển thành công và trở thành Big Tech, nhưng một khi đã thành công thì hiệu quả kinh tế mang lại rất lớn. Bởi các doanh nghiệp này không chỉ trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế, mà còn có khả năng lan tỏa, kết nối thị trường, xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, dịch vụ để các doanh nghiệp start-up thế hệ tiếp theo cùng bám vào đó mà phát triển.
![]() |
Các công ty công nghệ vốn có cách thức vận hành với đặc thù riêng đang gặp khó khăn trong tiếp cận thị trường vốn. Ảnh: Anh Vân |
Đã đến thời điểm để bứt phá
Trải qua hơn 20 năm ươm tạo thành công, lứa start-up đầu tiên, phát triển lên thành Big Tech, với tiềm lực hứa hẹn có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Vậy phải chăng, muốn có thêm những lứa kế cận, chúng ta sẽ mất thêm 20 năm nữa?
Thực tế không hẳn là như vậy, bởi bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay đã khác. Trải qua quá trình cọ xát trên thực tế, các vấn đề kìm hãm sự phát triển của hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã được cấp có thẩm quyền nhận diện và tháo gỡ qua các giải pháp rất thiết thực, bằng các chỉ tiêu rất cụ thể trong Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Bên cạnh đó, các tập đoàn lớn nói chung và Big Tech nói riêng như: FPT, VNG, MoMo hay VinGroup… đang đóng vai trò quan trọng trong việc bồi đắp thêm “dưỡng chất” cho hệ sinh thái start-up phát triển mạnh mẽ hơn.
Big Tech cùng với các thành phần khác trong hệ sinh thái đang tương tác ngày càng chặt chẽ, tạo thành chuỗi giá trị liên hoàn. Thí dụ, sự hiện diện của Big Tech giúp start-up tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao từ các công ty này; có đầu ra thông qua mua bán và sáp nhập (M&A); sử dụng được các nền tảng dịch vụ do Big Tech cung cấp…
Từ phía các quỹ đầu tư, họ chỉ sẵn sàng rót vốn nếu nhìn thấy khả năng xoay vòng vốn thông qua M&A cho Big Tech hoặc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) giai đoạn sau; trong khi chính những thương vụ M&A với Big Tech lại tạo động lực cho nhiều start-up mới ra đời…
Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển cho thấy, sau thời gian đầu ươm tạo, các doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước đều giữ vị trí then chốt trong hệ sinh thái start-up. Big Tech thiết lập các nền tảng công nghệ và tiêu chuẩn thị trường mà dựa vào đó nhiều doanh nghiệp start-up có thể xây dựng sản phẩm dịch vụ của mình. Thí dụ, hệ sinh thái điện toán đám mây tại Seattle (Hoa Kỳ) phát triển mạnh nhờ sự hiện diện của Amazon, sau đó thu hút cả Google và Facebook mở văn phòng và kéo theo hàng loạt start-up về điện toán đám mây hình thành.
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, động thái hỗ trợ nhanh và thiết thực nhất của cơ quan quản lý nhà nước chính là tạo dựng các cơ chế, chính sách phù hợp để chính các doanh nghiệp công nghệ đi đầu như: MoMo hay VNG... có thể mang kinh nghiệm của mình, vừa trở thành nhà đầu tư vừa đồng hành với các start-up. Điều này sẽ tạo ra hiệu ứng “cộng hưởng” khi nguồn vốn, nguồn kiến thức, kinh nghiệm của thế hệ đi trước được quy tụ nhằm thúc đẩy các hạt nhân của nền kinh tế mới.
Sau 20 năm “thử lửa”, các start-up Việt trên con đường vươn mình trở thành Big Tech, đã sẵn sàng ghé vai cùng Nhà nước để hỗ trợ hệ sinh thái khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong kỷ nguyên mới. Tuy nhiên, chính các đơn vị này cũng đang cần sự hỗ trợ từ những chính sách thực chất để khai mở nguồn lực từ thị trường vốn. Các chính sách quản lý thị trường vốn trong giai đoạn vừa qua đã phát huy hiệu quả tích cực khi vừa huy động được mọi nguồn lực trong xã hội, vừa thanh lọc người tham gia để bảo đảm chỉ những doanh nghiệp minh bạch và “khỏe mạnh” nhất mới được tiếp cận.
Tuy nhiên, những quy định chặt chẽ này vô hình trung đang trở thành rào cản khó vượt đối với các công ty công nghệ vốn có cách thức vận hành với đặc thù riêng. Trên thực tế, nhiều quốc gia phát triển cũng đã ban hành những chính sách đặc thù đối với nhóm này. Và câu hỏi đặt ra là các cơ quan quản lý chuyên ngành tại Việt Nam liệu đã sẵn sàng “mở khoá” thị trường, khơi nguồn lực vốn cho các start-up có thể bứt phá?
Xin khẳng định, với tiền đề là Nghị quyết số 57-NQ/TW và tâm huyết mà cấp có thẩm quyền gửi gắm theo đó, chắc chắn đã đến thời điểm để bứt phá, hướng tới kỷ nguyên mới của đất nước.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi khoa học, công nghệ là yếu tố quyết định và nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết số 57-NQ/TW có thể xem là “Nghị quyết giải phóng tư duy khoa học”, “Nghị quyết để thực hiện các Nghị quyết”, “Nghị quyết của hành động” với những mục tiêu rất cụ thể, đổi mới cách nghĩ, cách làm, nhằm hiện thực hóa các chủ trương, xóa bỏ rào cản, giải phóng năng lực để thúc đẩy đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo nền tảng phát triển mạnh mẽ đất nước trong thời kỳ mới”.
Tổng Bí thư TÔ LÂM phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ngày 13/1/2025.