Công việc mang nhiều ý nghĩa
Sau tiếng nói, chữ viết là hệ thống ngôn ngữ thứ hai, như “căn cước văn hóa” khẳng định bản sắc của một dân tộc. Đồng thời với phát triển kinh tế, xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số, việc bảo tồn và phát triển văn hóa - trong đó có tiếng nói và chữ viết, có vai trò quan trọng khi chúng ta chú trọng bảo vệ đa dạng văn hóa như giữ gìn tài nguyên đồng thời bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc đã được khẳng định trong Hiến pháp.
Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, tiếng nói và chữ viết truyền thống của người Chăm và Khmer đã được đưa vào dạy thực nghiệm trong trường phổ thông ngay từ năm học 1977-1978. Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, tiếng và chữ của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có dân số đông như
Ê Đê, Ba Na, Gia Rai cũng từng bước được dạy trong các trường cấp 1. Ở tỉnh Ninh Thuận đông người Chăm, tỉnh Đắk Lắk đông người Ê Đê, ở Trà Vinh, Sóc Trăng đông người Khmer… đều có ban biên soạn sách giáo khoa và dạy chữ dân tộc trong những lớp ở bậc tiểu học đông học sinh là người dân tộc. Ở tỉnh Điện Biên, nhiều năm học trở lại đây đã dạy chữ Thái, chữ H’Mông… Việc dùng tiếng nói và học chữ viết của dân tộc mình đã giúp các em hiểu thêm về truyền thống, phong tục, thêm hòa đồng với nhau, từ đó giúp học tốt hơn tiếng phổ thông và các môn học khác, thêm tự tin hòa nhập, cùng đoàn kết và cùng phát triển.
![]() |
Học sinh người H’Mông đã được học chữ H’Mông ở bậc tiểu học. |
Vươn lên phát triển văn hóa của mình
Người H’Mông có dân số đông thứ 8 và đã có quá trình định cư ở Việt Nam từ hơn 300 năm trước. Người H’Mông muốn có chữ viết của mình vì họ đã thấy rõ những lợi ích của việc biết chữ là có thể lưu lại những phong tục tập quán, viết lại những bài cúng, bài ca, viết lại cách làm cái cày, cái cuốc, cách làm váy áo... Nhiều người còn khẳng định rằng việc biết chữ sẽ giúp họ tự tin hơn, “Để mình không thua kém những người khác”.
Từ năm 1961, bộ chữ H’Mông đã được Chính phủ phê chuẩn, sử dụng thống nhất. Những năm 60-70 của thế kỷ trước, phong trào học chữ của người H’Mông phát triển khá mạnh, nhưng đến nay do nhiều nguyên nhân, chữ H’Mông Việt Nam chỉ tồn tại trong ký ức của những người đã từng được học. Bộ chữ H’Mông quốc tế dùng ký tự la tinh có những ưu điểm dễ đọc, dễ nhớ, người H’Mông tiếp nhận rất nhanh. Đến nay, chữ H’Mông quốc tế đã phổ biến trên phạm vi thế giới. Thời internet, người H’Mông có thể dễ dàng tự tìm tài liệu và tự học chữ H’Mông trên mạng. Thanh thiếu niên H’Mông có thể kết bạn, chia sẻ phim, nhạc… hay trò chuyện trên Facebook bằng chữ H’Mông quốc tế dù đang ở bất cứ nơi nào.
Khoảng hơn 30 năm trước, chữ H’Mông quốc tế bắt đầu có mặt ở Việt Nam. Ở vùng có đông đồng bào H’Mông như Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La… chữ viết H’Mông đã dần trở nên phổ biến, việc dạy chữ H’Mông cho các em được chính quyền hỗ trợ và đã dần thành nền nếp. Hành trình người H’Mông ở Việt Nam tìm và phát triển chữ viết của mình là câu chuyện thú vị về sự vươn lên và mở rộng các giá trị văn hóa dân tộc.
Trân trọng bảo tồn và năng động mở rộng
Chữ viết mang đặc sắc văn hóa, là công cụ giao tiếp và lưu giữ ký ức trong cộng đồng. Chữ Nôm Dao ghi lại phong tục tập quán và tri thức dân gian của người Dao đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2012. Loại chữ này được viết trên giấy dó, trên vải hoặc khắc trên gỗ, thể hiện nội dung những cuốn gia phả, sách dạy đạo đức, sách ghi các bài dân ca, dạy thêu hoa văn, sách ghi lại các bài cúng, các phương thuốc dân gian, cách xem ngày tốt để dựng nhà, đón dâu...
Những cuốn sách, bộ kinh trên lá buông mang những giá trị độc đáo của văn hóa Khmer cũng đã được xếp vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2017 để bảo vệ và lưu truyền cho các thế hệ sau. Cũng như vậy, nhiều giá trị văn hóa lưu trong hàng chục nghìn trang thư tịch được viết bằng chữ cổ được lưu truyền trong cộng đồng người Chăm... Chữ viết, cách viết chữ, vật để viết chữ và cả vật mang tải những nét chữ đều chứa đựng di sản tinh thần được các dân tộc tự hào và cần trân trọng gìn giữ như một tài sản văn hóa.
Theo PGS, TS Vương Xuân Tình, nguyên Viện trưởng Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam: “Trong việc bảo tồn chữ viết của các tộc người, bên cạnh vai trò quan trọng của Nhà nước cần phát huy vai trò của cộng đồng, của các tổ chức dân gian không chính thức”. Với sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, phối hợp với hệ thống giáo dục chính quy, còn có thể mở rộng và đa dạng hóa việc truyền dạy chữ viết dân tộc. Những người biết chữ và có uy tín trong cộng đồng có thể khuyến khích, truyền cảm hứng cho những người trẻ học chữ viết của dân tộc mình.
PGS Vương Xuân Tình nêu thí dụ: “Ở các tỉnh miền núi phía bắc, nhiều thầy cúng biết chữ Nôm Dao ngoài việc tranh thủ sự ủng hộ và trợ giúp của chính quyền trong việc bảo tồn văn hóa còn tự chi kinh phí và huy động thêm nguồn lực của người học, sử dụng nhiều cách giảng dạy hiện đại (dạy trực tuyến, dựng video) để nâng cao hiệu quả. Hoặc với người Khmer, việc học chữ gắn bó với vai trò của các nhà sư và chùa. Trong thời gian tu tại chùa, các tăng sinh đều được học loại chữ này…”.