Huyết liên hoa (Tiếp theo và hết)

Rạng ngày 23 tháng 4 tức ngày mồng 6 tháng 3...

Huyết liên hoa (Tiếp theo và hết)

Henri Rivière cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy nhằm uy hiếp Hà Thành. Hoàng Diệu lập tức hạ lệnh giới nghiêm và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng chiến đấu, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế. Henri Rivière đưa tối hậu thư, yêu sách những điều khoản chẳng khác nào phường giặc cướp trắng trợn.

Lúc này Hoàng Diệu phái Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không có tin phản hồi từ giặc. Bá đi chuyến này về, trong lòng nao núng, thấy vận nước đã suy, quân tử cũng phải thức thời. Vua muốn giữ ngai vàng nên rụt đầu như rùa ở xó.

Lửa chiến tranh đã lan rộng. Huống chi bao năm qua, dưới trướng của Diệu, Bá đã sẵn chẳng vừa lòng. Thêm nỗi oán hận mối tình riêng năm nào mà sinh lòng phản trắc.

Quân sĩ trong thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu, bề ngoài lăm lăm giáo mác hô thề quyết tử giữ thành nhưng thực chất lòng dạ đã kinh hoàng bạt vía khi thấy pháo quân thù đã chĩa thẳng vào thành. Giáo gươm nào đọ được với súng? Xác người nát như tương. Mỏng hơn sợi cỏ. Quân lương trong thành đã sắp đến mức cạn kiệt. Bên ngoài Phó Thành Quang vẫn chưa đưa được vào.

*

* *

Lại nói tới việc tiếp viện từ dân, mới nhiều cay cực. Sau khi thu mua được số lương thực quanh vùng trong vụ đói giáp hạt, Phó Thành Quang lập tức cho người chia nhỏ thành từng gánh bên trên phủ chè, bọc lá sen, gánh vào thành. Mới trót lọt được ba mẻ. Đến dậm chiều ngày mồng 7 quân Pháp đã chăng chăng các cửa, màu áo vàng như cứt ngựa. Những vụn chè bị xối tung lương thảo nát vụn dưới đế giầy đinh. Một vài gia nhân nhà họ Phó bị bắt.

Từ ngày vâng lệnh cha tay nải lên đường, thuyền nan vẫn dập dềnh ngoài bãi sông Hồng. Giặc đã chiếm và quản thúc các nhánh sông, nhưng Phó Thành Minh vẫn gối mật nằm sương chờ đến thời lúc. Trong nhà họ Phó đã cho gia nhân và người làm thu xếp chạy loạn.

Đến phút cùng, khi tiếng súng đầu tiên nổ vào thành, khu đầm trị chỉ còn gia tộc nhà họ Phó vẫn kiên quyết bám đất. Tổng cộng có sáu người, hai người đàn bà, bốn người đàn ông, trong đó quản gia già, cụ Phó, đứa cháu đích tôn và anh gia nhân trung thành với chủ.

Phó Thành Quang lúc này đứng chơ vơ trước đất giời, thấy ngàn vạn vì tinh tú đang gieo mình xuống thăm thẳm tối. Cụ dắt đứa cháu nội của mình xuống am trà rồi ướp mẻ sen cuối cùng.

Chè xanh được sao tròn búp, giòn rộp trong lớp lá sen. Một lớp gạo sen lấm tấm như ngàn vạn hạt ngọc li ti rải lót đáy chum sành. Chè rắc lên, đều đều... Mồ hôi thánh thót. Cách một lớp chè, lại một lớp gạo sen. Khi chiếc chum được đậy lại, cụ Phó vuốt mồ hôi rồi hỏi thấy có gì khác không? Đứa cháu còn thơ dại lắc đầu. Cụ Phó mỉm cười, gạt lớp than hồng rực sang mé bếp, rồi với tay lấy chiếc đèn dầu. Sen còn thì người còn, sen mất thì người mất con ơi, cũng như nước thôi...

Đàn bà họ Phó đứng ngoài khóc rấm rứt, khóc cho vận nước, vận nhà, vận mình rồi sẽ đi về đâu?

Trong thành nổi lửa. Lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành. Canh một, Pháp đã tiến sát thành. Hoàng Diệu tuốt gươm vung sáng loáng trên thành, hô quân sĩ kiên cường. Hai canh giờ thì Tôn Thất Bá vừa chạy vừa thở hồng hộc, mặt xám ngoét đến bên Hoàng Diệu mà rằng: Quân địch mạnh, không biết có cầm được sáng mai. Nay tôi xin lấy thân mình, quyết liều phá vòng vây tìm đến triều đình xin cứu viện. Hoàng Diệu không chút hồ nghi, đặt tay lên vai Bá, mắt loang ướt. Tấm lòng trung quân của ông có đất giời thấu tỏ.

Lúc này theo sự chỉ đạo của Tổng đốc, dân làng các vùng ngoại thành dựng chiến hào, ngăn cản đường tiến công của địch. Từ các ngôi nhà trống, các ụ tre trúc bên đường, nơi giặc đi qua, như ma quỷ thoắt ẩn thoát hiện găm thẳng ngực kẻ thù. Một số bị thương vong, địch buộc lòng phải lui quân ra ngoại thành để củng cố lực lượng.

Sau khi rời thành, Tôn Thất Bá không đi về hướng nam mà chạy ngược lên làng Mọc, phía đông nam Hà thành tìm gặp Henri Rivière thông báo tình hình trong thành cho chúng. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh. Henri Rivière gật đầu đồng ý rồi nhếch miệng cười nhạt thếch. Lúc này Bá mới hiểu ra cơ sự, mồ hôi vã ướt đầm sống lưng. Ăn của chủ nào phải theo chủ ấy, cái này ông hiểu chứ? Bá vội vàng gật đầu. Đêm, dáng cúi gằm, chân nọ léo vào chân kia, gã chạy về phía kho thuốc trong thành.

Đêm ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3.

Tiếng súng yên. Đêm lại về tĩnh lặng. Lúc này trong nhà họ Phó, đàn ông đã nai nịt gọn gàng, đầu chít khăn, nâng quang gánh lên vai, bước vội vàng vào màn đêm. Đàn bà ra ngõ ngóng, tiếng trẻ con thi thoảng lại khóc ré lên. Đến được cửa thành thì cửa đóng kín bưng, trong ngoài lính canh nghiêm ngặt. Phó Quang vuốt mồ hôi còn ròng ròng trên mặt mà rằng: Ta là chỗ tâm phúc của Tổng đốc, phiền anh vào thưa, ta mang lương thực vào thành.

Trà thơm một ấm

Cơm tấm một đòn

Ăn ăn

Nuốt nuốt

Mà bỗng nhiên có một gã lính trẻ bật khóc, mắt rưng rưng. Bảo nhớ mẹ. Không biết giờ đã đi chạy loạn chưa? Diệu nén tiếng thở dài, bước đến cửa thành nhìn xuống. Đặt chén nước trà lên mặt thành rồi quay sang nói với Phó Quang. Tôi nghe đêm tĩnh mịch, nghe chừng còn nguy hơn tiếng súng. Trận này quyết chiến, chẳng biết bằng hữu ta còn có gặp được nhau. Được uống chén trà có tình của ông, tri âm chẳng còn gì bằng. Nay bác nhanh chóng trở về lo cho gia quyến. Nếu còn ngày gặp lại... Diệu ngắt quãng. Lúc này Phó Quang đã rưng rưng. Đến phút cuối, nếu sức giặc càn vỡ trận, thì... con thuyền nan bên ngạn sông Hồng vẫn đợi ngài. Cháu vẫn chờ ngài ngoài đó. Nói rồi Phó Quang xuống thành. Vừa đi vừa than. Đêm ấy búp sen đá bằng cẩm thạch bấy lâu nay Hoàng Diệu giữ bên mình bỗng chuyển màu, đỏ quạch. Huyết liên hoa... Huyết liên hoa... Diệu bỗng gai người, lặng lẽ bọc búp sen lại.

Phó Quang vừa về đến nhà, chân ướt chân ráo được nửa canh thì kho thuốc nổ Hà Nội bị cháy, một góc trời bị nung đỏ. Pháo nã dồn dập liên hồi. Náo loạn. Chạy. Xác chồng trên xác.

Phó Thành Minh nghe tin thành thất thủ vội vàng lẩn theo đám người chạy loạn mà tìm cách vào. Tiếng súng lúc này đã im, thành tan hoang, thây người xếp dầy như nêm từ Hàng Chĩnh vào chân thành. Một mảng tường vỡ bung, lồi lõm, màu áo cứt ngựa đã kín đặc sân. Tiếng tây lố nhố. Vòng trong vòng ngoài, không thấy xác Tổng đốc, chẳng lẽ ngài đã trốn được khỏi tay giặc? Lúc Minh mò mẫm được ra tới cửa thì thấy giặc bu đầy gốc đa, một dải lụa trắng, Hoàng Diệu đã tuẫn tiết để giữ lòng trung với nước. Henri Rivière khẽ cúi đầu, Tôn Thất Bá khúm núm đứng kề bên, nhìn trân trối. Một tiếng nấc bất ngờ vang lên trong khe tường tối âm âm, đồng loạt tất cả mũi súng chĩa thẳng về phía Minh. Henri khoát tay. Bắt sống. Báng súng đập chan chát vào bụng Minh, máu hộc ra miệng. Hai mắt Minh gần như trợn trừng, trắng dã, nhìn đăm đăm vào mặt Tôn Thất Bá. Bá tránh ngay ánh nhìn hằn học ấy.

Canh năm, Phó Thành Minh bị trói giật cánh khuỷu, rã rời, vừa đi vừa lết trên đường. Hai bên rìa sen, gió mưa khiến cảnh càng thêm tiều tụy. Máu từ miệng Minh rớt dọc đường, thấm xuống từng lớp cỏ. Bá đi bâng lâng trên cỏ, thấy đâu đó mùi trinh nữ ngai ngái như mùi bùn non phảng phất. Đôi mắt Tuyết Liên vẫn mở đăm đăm nhìn. Sen đã lụi, người xưa cũng mất. Lỗi này tại ai? Tại trời, ý trời khó tránh. Bây giờ Bá chẳng tin ai, chẳng thương ai, chẳng sống vì ai nữa. Cả đế vương. Cười nhạt. Đế vương xa lắm, đế vương rụt đầu. Người cũng đang vừa khóc vừa cười như kẻ ngẫn...

Am trà bị phá tung, những vụn chè khô vương vãi khắp nhà. Sáu con người quỳ dưới đất. Minh gục đầu vào lòng mẹ, máu nhểu thành bọt. Hơi thở đã gần đứt, mỏng như sợ khói. Henri Rivière chỉ vào mặt Phó Quang. Lão già. Nghe nói nhà lão ba đời làm nghề ướp trà sen? Nghe là lạ. Thế phải pha với cái gì? Thưa ngài bằng hạt sương được lấy từ lá sen buổi sớm, đun sôi pha với chè. Henri Rivière cười, Tôn Thất Bá cũng cười hùa theo. Người nước ta không uống trà sen, không quen hạt sương, sương phương nam có độc. Ta nghe nói ở xứ sở các người có thứ Huyết liên hoa thượng hạng. Thưa, từ bé đến giờ tôi chưa từng nghe thấy thứ trà ấy bao giờ. Henri Rivière quay sang nhìn Tôn Thất Bá, lúc này mắt đang bần thần nhìn đăm đăm ra đầm sen. Hắn trả lời trong vô thức: Pha trà bằng máu. Henri Rivière cười vang. Bây giờ ta muốn ông lấy máu Thành Minh pha trà. Phó Quang đứng phắt dậy. Đồ phản trắc, đồ bội bạc. Ngươi đang tâm cõng rắn cắn gà nhà. Giết anh em bằng hữu. Đồ giặc cỏ.

Phó Quang gục xuống, một bên trán máu tuôn ướt đầm. Đàn bà khóc. Đàn bà kêu xin. Những tiếng cười. Năm con thú, với những lông tay vàng chóe, nanh vuốt trắng ởn. Kê đầu cụ Phó lên trảng gỗ. Một tiếng "phập" khô gọn. Máu phun xối xả, chiếc ấm nung bằng đất sánh đặc máu. Máu nóng hổi, bốc hơi tanh lộng óc. Những súng gươm tua tủa đã dí vào đầu Thành Minh, lão quản gia già, đứa cháu cuối cùng của dòng tộc. Đàn bà run. Lửa đã châm, rừng rực giữa nhà. Tấm biển sơn son thếp vàng bị hạ xuống làm mồi cháy. Chè xanh đã sao tròn búp rải trên chiếc mâm đồng, chưa hây hây nguội, được tráng qua một lớp máu tươi, búp chè quánh lại. Sau đó được hãm bằng nước được lấy từ những giọt sương đêm đọng trên lá úa ven hồ. Trong ấy có cả nước mắt đàn bà.

Một nắm chè giòn rộp đổ vào. Những cú lắc chao chao. Huyết liên hoa, huyết liên hoa. Những tiếng cười. Huyết sóng đọng thành váng. Đàn bà ngậm miệng. Bóp miệng, bóp ngàm cua. Ra thế. Đàn bà uống trà. Mắt trợn ngược. Chắc ngon. Máu vương đầy miệng. Nước mắt đầm đìa. Phó Thành Minh chỉ kịp nấc lên một tiếng rồi tắt thở.

Tôn Thất Bá quay cuồng, đầu đau như trăm ngàn mũi giáo đâm xuyên. Hai tay bưng mặt. Bá chạy lao ra phía đầm sen. Ngã. Dụi mặt xuống vũng bùn phía trước. Thấy bóng yếm thắm xa xa, rồi thẫm lại trên rìa đầm phía bên kia sông. Máu Phó Quang chảy ròng xuống đầm Trị. Vụ sau, từ các gốc sen đã lụi tách nước ngoi lên những mầm mới. Đâm hoa, ngàn vạn nụ trắng phau, và duy nhất đầm Trị chỉ trồng được một loài sen trắng.