Ðể có đội ngũ cán bộ “đủ tâm, đủ tầm, đủ trí, đủ tín, đủ tài”

LTS - Tiếp sau loạt bài “Lò đã nóng lên rồi!” đăng Báo Nhân Dân cuối tuần số 33 (ra ngày 13-8-2017) và bài “Phải nhốt quyền lực trong lồng thể chế” đăng Báo Nhân Dân cuối tuần số 34 (ra ngày 20-8-2017) nhận được nhiều ý kiến phản hồi của bạn đọc, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu bài viết của đồng chí Cao Văn Thống, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương bàn về cách thức triển khai để Quy định số 89-QÐ/TW và Quy định số 90-QÐ/TW mới ban hành mang lại hiệu quả thiết thực trong việc lựa chọn chính xác đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

Cán bộ UBND quận 1, TP Hồ Chí Minh hướng dẫn người dân làm thủ tục hành chính. Ảnh: VIỆT DŨNG
Cán bộ UBND quận 1, TP Hồ Chí Minh hướng dẫn người dân làm thủ tục hành chính. Ảnh: VIỆT DŨNG

Trong một thời gian dài, việc xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (gọi tắt là thuộc diện Trung ương quản lý) và đội ngũ cán bộ thuộc diện cấp ủy các cấp quản lý được Ðảng ta và các cấp ủy hết sức quan tâm chăm lo. Nhờ đó, chúng ta đã có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Trung ương và các cấp ủy quản lý gánh vác trọng trách trước Ðảng, dân tộc và nhân dân, lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Ðảng, đưa đất nước ngày càng phát triển như ngày nay.

Tuy nhiên, việc xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Trung ương và các cấp ủy quản lý cũng còn những hạn chế, bất cập, thậm chí có thiếu sót, khuyết điểm. Vì vậy, vẫn còn một số cán bộ thuộc diện Trung ương, cấp ủy các cấp quản lý hạn chế, yếu kém về năng lực trình độ, khả năng, kinh nghiệm công tác, không vượt lên được chính bản thân mình, khả năng tự đề kháng yếu. Từ đó, nhiều đồng chí đã sa vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu bản lĩnh, chính kiến, không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, thậm chí còn có biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, để người thân, cấp dưới lợi dụng vị trí công tác để trục lợi; chỉ thích dùng người thân, người nhà, người cùng cánh, không thích dùng người tài,... Dẫn đến bất chấp nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng, của tổ chức, cơ quan, đơn vị, vi phạm kỷ luật của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của các đoàn thể chính trị - xã hội mà họ là thành viên, gây bất bình trong dư luận, làm mất niềm tin của đảng viên và quần chúng.

Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, nhưng chủ yếu là do công tác theo dõi, nhận xét, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất vì còn có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, tình trạng dĩ hòa vi quý trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đặc biệt là do chưa có tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ cụ thể, khoa học để làm căn cứ, cơ sở đánh giá chính xác về phẩm chất và năng lực, trình độ cán bộ, nhất là năng lực thực tiễn và đạo đức, phẩm chất thật sự của cán bộ. Cấp đánh giá cán bộ không nắm được thực tế về năng lực, trình độ, khả năng, sự cống hiến, thành tích của cán bộ; nhất là về những hạn chế, thiếu sót, tồn tại, hoặc khuyết điểm, vi phạm của cán bộ. Nên khi nhận xét, đánh giá, xem xét, quyết định bổ nhiệm, bầu cử cán bộ không phát hiện ra; sau đó vì nhiều lý do mới phát hiện ra khuyết điểm, vi phạm của cán bộ thì đã muộn. Mặt khác, cũng do chưa có tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí về đánh giá cán bộ cụ thể nên chưa có đủ căn cứ, cơ sở, điều kiện thực hiện việc theo dõi, kiểm tra, giám sát, kiểm soát cán bộ thuộc diện Trung ương và các cấp ủy quản lý trong việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp, từ đó sàng lọc, lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, có hiệu quả nhất.

Có thể nói, việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 89-QÐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định số 90-QÐ/TW, ngày 4-8-2017 về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý là căn cứ, cơ sở, điều kiện quan trọng, thuận lợi cho việc theo dõi, kiểm tra, giám sát, kiểm soát cán bộ thuộc diện Trung ương và các cấp ủy quản lý phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện; từ đó có căn cứ, cơ sở, điều kiện đánh giá khoa học, cụ thể, trung thực, chuẩn xác về phẩm chất chính trị, năng lực công tác, khả năng phát triển của cán bộ theo từng chức danh cụ thể, với các tiêu chí và phương pháp đánh giá cụ thể, khoa học, sát hợp; khắc phục các hạn chế, bất cập, khiếm khuyết nêu trên trong công tác theo dõi, kiểm tra, kiểm soát, nhận xét, đánh giá cán bộ không có tính khoa học, hệ thống, xuyên suốt, liên thông, toàn diện, đồng bộ.

Ðặc biệt, trong hai quy định này của Bộ Chính trị đã nêu cụ thể về tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn cụ thể của từng chức danh lãnh đạo, quản lý. Ðối với tiêu chuẩn chung của cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã nêu cụ thể về chính trị tư tưởng, trong đó nhấn mạnh “luôn đặt lợi ích của Ðảng, quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên lợi ích của ngành, địa phương, cơ quan và cá nhân”.

Về đạo đức, lối sống, đã nhấn mạnh: “Mẫu mực về phẩm chất đạo đức; sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tuyệt đối không tham vọng quyền lực, có nhiệt huyết và trách nhiệm cao với công việc,... Không tham nhũng, cơ hội, vụ lợi,...; chỉ đạo quyết liệt chống tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực lãng phí, cửa quyền và lợi ích nhóm; tuyệt đối không để người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi; công khai, minh bạch, khách quan, dân chủ trong công tác cán bộ”.

Về trình độ phải bảo đảm 5 tiêu chuẩn, trong đó phải tốt nghiệp đại học trở lên; lý luận chính trị cử nhân hoặc cao cấp và quản lý nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp. Về năng lực và uy tín, nhấn mạnh phải “Có tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược,... Là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao”.

Về sức khỏe, độ tuổi kinh nghiệm, nhấn mạnh phải “bảo đảm tuổi bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử theo quy định của Ðảng. Ðã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn”.

Về tiêu chuẩn chức danh cụ thể, đã quy định cụ thể 20 chức danh, như các chức danh: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Tổng Bí thư; Chủ tịch nước; Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội; đồng chí Thường trực Ban Bí thư; Trưởng các ban Ðảng Trung ương; Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Quốc hội; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Bộ trưởng và tương đương; Bí thư các tỉnh, thành ủy trực thuộc Trung ương,...

Về tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, Quy định số 90-QÐ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ hai nhóm tiêu chí chính. Trong nhóm tiêu chí về chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; tác phong lề lối làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật, đã nêu rõ nội dung từng tiêu chí cụ thể trong nhóm tiêu chí này. Về tiêu chí chính trị tư tưởng, nhấn mạnh việc “Ðặt lợi ích quốc gia - dân tộc, tập thể lên trên lợi ích cá nhân”. Nhóm đạo đức, lối sống nhấn mạnh “Không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi; không có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... Không để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi”. Nhóm tiêu chí về ý thức tổ chức kỷ luật nhấn mạnh việc “Chấp hành sự phân công của tổ chức, yên tâm công tác. Thực hiện việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập theo đúng quy định”.

Trong nhóm tiêu chí về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao cũng quy định tiêu chí chung gồm 5 tiêu chí, trong đó nhấn mạnh tiêu chí “Tích cực, chủ động và thực hiện tốt việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí tại địa phương, cơ quan, đơn vị”. Trong nhóm tiêu chí đặc thù theo từng chức danh cán bộ đã quy định cụ thể đối với 7 loại chức danh: Ðối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan tham mưu của Ðảng. Ðối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan hành chính nhà nước. Ðối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan dân cử. Ðối với cán bộ lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Ðối với cán bộ lãnh đạo, quản lý lực lượng vũ trang. Ðối với cán bộ lãnh đạo, quản lý tòa án nhân dân. Ðối với cán bộ lãnh đạo, quản lý viện kiểm sát nhân dân.

Thực tế cho thấy, các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Ðảng là căn cứ cơ sở quan trọng trong việc thực hiện nghiêm Cương lĩnh chính trị, các nguyên tắc, Ðiều lệ Ðảng. Tuy nhiên, khâu nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát, kiểm soát, đánh giá kết quả, hiệu quả việc thực hiện vẫn là khâu yếu.

Một số vụ việc vừa qua, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra, kết luận, xử lý và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý một số tập thể, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ðể các quy định đi vào thực tiễn, đòi hỏi các cấp ủy, phải có nhận thức đúng, đầy đủ về sự cần thiết phải ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng nói chung, Quy định về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý và Quy định về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp nói riêng trong tình hình hiện nay nhằm xây dựng Ðảng ta trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Bảo đảm xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp “đủ tâm, đủ tầm, đủ trí, đủ tín, đủ tài” để gánh vác trọng trách mà Ðảng, dân tộc và nhân dân giao phó.

Có thể bạn quan tâm