Mưa bão kích hoạt trượt lở, lũ quét
Theo chuyên gia Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường), điểm bất thường năm 2024 là hiện tượng sạt lở, lũ quét không chỉ xảy ra ở vài địa phương như trước, mà lan rộng khắp 14 tỉnh từ Đông Bắc đến Tây Bắc, thậm chí xuống cả Nghệ An và Thanh Hóa.
Ngay cả những địa phương vốn có nguy cơ thấp về sạt lở, năm nay cũng gặp phải loại hình thiên tai này. Chẳng hạn, khảo sát tại huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) sau bão Yagi cho thấy, một số vị trí địa chất bình thường vốn khá ổn định cũng bị sạt lở nghiêm trọng, nguy cơ ăn sâu vào tim đường. Hay như trên đoạn đường dài 200 km từ Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang) đến Bảo Lâm, Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), sau bão Yagi có khoảng 200 điểm sạt lở, trung bình mỗi km một điểm.
Về địa hình, địa chất tự nhiên, khu vực Tây Bắc vốn nằm trên các đứt gãy lớn như đứt gãy sông Hồng, sông Chảy... Trong đó, đứt gãy sông Hồng là một trong những hệ thống lớn nhất, rộng 5-10 km và kéo dài hàng nghìn km, cắt qua Lào Cai, Yên Bái. Hệ thống này đã hình thành và hoạt động tích cực từ hàng chục triệu năm trước đến nay. Đứt gãy chằng chịt như các đường chỉ trên bàn tay, khiến nơi đây trở nên mong manh hơn trước các tai biến thiên nhiên như: trượt lở, lũ quét, lũ bùn đá, thậm chí cả động đất và dịch chuyển nền đất. Hoạt động của các đứt gãy khiến nền đất bị nứt nẻ, vò nhàu, tạo điều kiện cho nước thấm sâu, đất đá bị phong hóa mạnh trở nên mềm, bở rất nhanh.
Ở Lào Cai tỷ lệ diện tích có đá vôi - loại đá ít có khả năng gây trượt lở, thuộc nhóm thấp nhất miền núi phía bắc. Địa hình của tỉnh này đa phần là núi đất, ít rắn chắc và độ dốc lớn, gây nguy cơ trượt lở cao. Các tỉnh lân cận như Sơn La, Lai Châu cũng có đặc điểm địa hình, địa chất tương tự. Trong khi các tỉnh phía Đông Bắc như Cao Bằng, Hà Giang có địa hình thấp hơn và phân bố nhiều đá vôi hơn.
Kết quả khảo sát của Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản trong giai đoạn 2012-2020 cho thấy, vùng Tây Bắc (Hòa Bình, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái) với đặc điểm địa hình núi cao, chia cắt sâu, chiếm 61% tổng số điểm sạt lở toàn miền bắc. Trong khi đó, khu vực phía Đông (Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang) chiếm 39%.
Theo TS Trịnh Hải Sơn, Viện trưởng Khoa học Địa chất và Khoáng sản, bên cạnh yếu tố địa chất, địa hình, thì những trận mưa sau bão đã kích hoạt các dạng thiên tai như trượt lở, lũ quét. Mưa là yếu tố kích hoạt chính trượt lở. Theo đề án điều tra hiện trạng và phân vùng cảnh báo nguy cơ sạt lở tại 37 tỉnh miền núi phía bắc do Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản thực hiện, 64 trong 220 xã trọng điểm có nguy cơ cao về sạt lở đất thuộc các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng... đã được điều tra chi tiết. TS Trịnh Hải Sơn cảnh báo, khi mưa dừng, độ ổn định của các sườn dốc còn rất thấp, có thể xảy ra trượt lở bất cứ lúc nào. Nhiều trường hợp, khi thời tiết nắng vài ngày vẫn sạt lở do nền đất chưa ổn định. Vì vậy, người dân cần đặc biệt lưu ý, không chủ quan cả khi kết thúc đợt mưa.
Dựa vào cảnh báo và dân để tránh thảm họa
Ông Hoàng Phúc Lâm, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, cho biết: Công nghệ cảnh báo sạt lở đất hiện nay chủ yếu dựa vào lượng mưa. Khi lượng mưa đạt 40-50 mm/giờ hoặc 250 mm/ngày sẽ có nguy cơ sạt lở, dựa vào đó cơ quan dự báo phát cảnh báo. Tại một số vùng chưa đầu tư được trạm đo mưa, cơ quan khí tượng dùng dữ liệu mưa từ vệ tinh, radar thời tiết. Ngoài ra, căn cứ vào lịch sử lũ quét, sạt lở của những địa phương có nguy cơ cao, vùng có nền đất yếu… để tổng hợp đưa ra cảnh báo.
Ông Hoàng Phúc Lâm nhận định, việc phòng chống sạt lở đất phát huy hiệu quả cao nhất cần dựa vào người dân tại chỗ. Một thí dụ nổi tiếng trong đợt sạt lở liên hoàn phía bắc vừa qua là trưởng thôn Kho Vàng, xã Cốc Lầu (huyện Bắc Hà, Lào Cai) đã dẫn 115 dân bản lên núi và tránh khỏi thảm họa lở núi thảm khốc dựa vào kinh nghiệm cá nhân. Do đó, cùng với việc cập nhật thông tin cảnh báo, cần trang bị kiến thức cho người dân, lãnh đạo địa phương để quan sát nhận biết dấu hiệu, nguy cơ sạt lở đất và có phương án phòng tránh kịp thời.
Theo các chuyên gia, cơ quan quản lý nhà nước cần khảo sát địa chất tại các địa phương miền núi để có giải pháp cụ thể cho từng khu dân cư. Với khu vực nguy hiểm, nguy cơ cao cần di dời người dân. Nhà nước cần bố trí tái định cư với hạ tầng đáp ứng được yêu cầu đời sống và canh tác của khu dân cư, trước hết là giao thông. Với khu dân cư nguy cơ thấp, có thể xây dựng kè, đê ngăn lũ, ngăn xói lở. Và giải pháp có thể làm ngay là xây dựng nhà cộng đồng chống thiên tai bằng bê-tông cốt thép, sẵn sàng trở thành khu lưu trú của người dân bản địa khi có nguy hiểm.
Giai đoạn 2012-2020, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản từng thực hiện đề án về điều tra hiện trạng và phân vùng cảnh báo nguy cơ sạt lở tại 37 tỉnh miền núi phía bắc, tỷ lệ 1/50.000. Đến nay, đề án mới thành lập Bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tại 25 tỉnh, và Bản đồ phân vùng nguy cơ ở 15 tỉnh. Tuy nhiên, đề án dừng ở bản đồ nguy cơ tỷ lệ 1/50.000, và hiện nay trong cảnh báo sạt lở, Việt Nam vẫn dùng bản đồ tỷ lệ này. Thời gian tới cần đặt trọng tâm vào xây dựng bản đồ nguy cơ sạt lở, lũ quét chi tiết nhất có thể và phải cập nhật thường xuyên...”.
TS TRỊNH HẢI SƠN
Viện trưởng Khoa học Địa chất và Khoáng sản