1. Ðịa văn hóa chỉ ra rằng, con người sinh ở tiểu vùng địa lý cảnh quan nào thì sẽ hình thành nét tính cách tương ứng. Người ở vùng biển làm nghề chài lưới thì tâm tính không giống lắm với người sống ở nơi đồng ruộng; sơn dân vùng thượng du cũng không trùng lối hành xử của cư dân miền hạ. Không biết là người ta khái quát như vậy có thật sự chính xác hay không. Còn tôi, tôi sinh ra ở bên bờ biển nhưng từ lâu rồi, hình như tâm tưởng đã thuộc một phần về núi, đó là những dãy núi nơi tôi đang sống, hiển hiện trong tầm mắt thường nhật và cả những đường nét sơn dã ảo mờ như những dòng ký ức điệp trùng từ miền xa xăm. Với tôi, núi từng là một miền vẫy gọi, rồi trở nên gắn bó với những trải nghiệm ắp đầy hấp lực. Cuộc hành trình theo mãi, tìm chút gì ở núi, mà bao tháng năm qua vẫn như đang lạc đâu đó ở triền thấp nhất của muôn nẻo đại ngàn. Núi ban cho tôi những ân huệ cảm xúc. Tôi cũng nghĩ về núi như một nơi chốn trú ngụ của những hoài vọng, là điểm tựa cân bằng trong những lúc tâm hồn cần sự tĩnh suy. Xa núi thì nhớ núi, về bên núi vẫn không nguôi cơn khát kiếm tìm giữa mênh mang sơn nguyên…
Tôi sinh ra nơi cuối sông đầu biển. Với đám con nít ở vùng duyên hải mở mắt đã chạm vào sóng nước thì cái hình dung về núi là một thực thể gì đó thật xa, mờ, cao, lạ. Ký ức núi của tôi là… cái núi giả. Ngọn giả sơn có tượng hình ngôi chùa chênh vênh vách đá và lão tiều phu gánh củi trong cái bể cạn bằng đá bên góc sân nhà là khái niệm đầu tiên về điệp trùng núi non đâu đó trên miền thượng du mà tôi được cảm nhận. Cảm nhận trong một nỗi bất lực bởi thiếu sự trải nghiệm. Nhưng cũng từ cái ngọn núi giả được chế tác bằng vật liệu thô mang tượng hình khô khan ấy đã giúp tôi mỗi ngày như ngấm thêm một chút về nỗi niềm khao khát cội nguồn thiên nhiên sơ khai của những con người hiện đại. Bởi tiền nhân của chúng ta từ thời tiền sử từng thuộc về núi non, hang động, thuộc về những cánh rừng có trái cây ngon, muông thú lạ và lần đầu tiên con người biết lấy lửa nướng chín thức ăn là từ việc xát bùi nhùi lên hòn đá núi. Chợt nghĩ, có phải do vậy không mà cho đến bây giờ, những gì mà ngôn tự định danh là “nguồn” đều có xuất xứ từ trên miền cao, ở nơi đó có núi? Vậy tôi cứ mạnh dạn “phán” bừa, rằng người đồng bằng thích chơi giả sơn là bởi người ta chất chứa trong lòng nỗi hoài niệm về xứ nguồn tiên tổ, nơi hình thành gốc gác buổi sơ khai của chính mình với tư cách là con - người - đứng - thẳng - trên - hai - chân…
2. Trước núi, tôi vẫn thường suy tưởng về những gì đã khuất lấp, những gì sắp hiện hữu. Ví như, khuất phía sau mỗi con đường mòn ngoằn ngoèo kia chắc là dòng suối mát lành nhằm thỏa cơn khát cho người leo núi. Khuất phía sau trập trùng xanh thẳm kia có thể là một linh tự thờ những vị thượng đẳng thần Cao Các - Cao Sơn hay bà rồng, ông cọp. Khuất phía sau những sương khói bồng bềnh giữa lưng chừng trời cũng có thể là một ngôi chùa tránh xa tục lụy nhằm rửa bớt những dục vọng, ưu phiền. Ðâu đó sau phiến đá xám rêu là ngôi lều cỏ có bậc hành giả hiện trong dáng tiều phu. Không thể nào biết phía chưa đến ấy có gì và có thể là cả đời cũng không đến được, nhưng điều này có thể nhận ra: thử thách của núi là thử thách cao nhất mà mỗi người phàm trần đều muốn hướng tới…
Núi, có lẽ là một ám ảnh lớn lao trong tiềm thức loài người. Cái ám ảnh khởi nguyên mang tính bản năng ấy có gì đó hoang dã nhưng lớn hơn điều đó chính là sự cao vời, thiêng liêng. Cảm xúc về tính thiêng bắt nguồn từ nỗi cô đơn mang “thuộc tính núi”, càng lên cao càng bơ vơ lạnh lẽo, nhưng cũng có thể bởi muôn trùng hoang hoải, bất lực của tha nhân trước những nỗi lo sợ của chính họ. Con người, nhất là người tiền sử và ngay đến thời xã hội bán khai thì có vô cùng sự thiếu hiểu biết và hoàn toàn thất thủ trước đe dọa thường nhật của các thế lực tự nhiên, siêu nhiên. Mưa, gió, sấm, sét, lũ lụt, hạn hán và cả ma quỷ, thánh thần luôn hiện hữu trong thực tế và ý nghĩ của họ với những điều không thể lý giải. Vì vậy, họ luôn ôm trong lòng nỗi tột cùng sợ hãi và mong cầu sự che chở, ấp ôm, nâng đỡ của đấng tối cao. Người ta ngửa mặt lên trời để chuyển tải những thông điệp cầu xin. Trời thì quá cao, nhưng thật may, những đỉnh núi đã bắc nhịp cầu nối đất với trời. Trong quan niệm cổ sơ, thần linh thường chọn các đỉnh núi cao nhất để ngự vì. Là Olympia trong thần thoại Hy Lạp, là Himalaya, Makalu, Nanga Parbat ở nơi xứ người hay Phanxipan, Tản Viên, Hồng Lĩnh, Ngọk Linh, Cư Yăng Sin, Bidoup xứ mình đều vậy. Người ta gọi những đỉnh núi cao là “cổng trời” kia mà. Những gì con người không thể tâu trình được trực tiếp lên Thượng đế, đành phải nhờ cậy các vị thần gần hơn, thần đang ở đâu đó trên các ngọn núi. Là thánh thần nhưng con người vẫn thường gặp họ qua ngũ giác của mình, nên trong vẻ hùng vĩ cao vời lại có chút gì gần gũi, bởi thân thiết nên mới dám thưa gửi, cậy nhờ.
Ở miền Tây Nguyên, nơi tôi đang sống cũng vậy. Núi non nơi này là sản phẩm triệu năm của tạo hóa. Ngọn núi nơi nào càng cao thì thần linh nơi đó càng huyền bí, nhiệm màu. Núi là biểu tượng của quyền uy, sức sống và cái đẹp. Núi là không gian của niềm tin, của huyền thoại, là một phần vũ trụ bí ẩn. Tạo hóa sinh ra núi nhưng không đặt tên, núi có tên bởi do con người nhìn núi mà gọi. Thế giới tinh thần của các sắc dân trên miền thượng du này lệ thuộc một phần vào núi, bởi không gian sinh tồn của con người gắn bó mật thiết với nơi chốn trú ngụ của thánh thần. Cư dân bản địa hành xử theo tiếng vọng của núi. Những chênh vênh hay bền vững. Những bi tráng hay phiêu bồng. Những yêu thương, ẩn ức, căm ghét hay hận thù. Hãy lắng nghe những lời kể sử thi, những câu chuyện cổ, những áng ca dao, những vần luật tục. Hãy đắm mình vào trang sử ngàn năm cao nguyên. Hãy cùng quỳ trên đất đai xứ này trong lễ cúng thần núi và lắng theo thông điệp khẩn cầu. Rồi sẽ thấy, ở xứ này hồn núi hòa vào huyết quản của cư dân núi. Những đỉnh núi mang vinh quang và bi kịch thánh thần. Những ngọn núi tạo nên tín ngưỡng và chuyện tình lãng mạn. Rồi sẽ thấy, những dãy núi không chỉ tồn tại như những chỉ dấu địa lý, núi non là một phần hồn cốt thiêng liêng của đất nước này…
3. Tôi có những người bạn xứ núi, những người con ruột rà của đại ngàn. Nếu núm rốn của tôi ngày xưa bà nội giấu nơi góc ruộng lúa sau nhà thì núm rốn của những người bạn miền thượng của tôi lại được hòa trong đất đai rẫy bắp nơi chân núi. Bỗng một ngày những người bạn của tôi giã biệt cái nhà sàn khét mùi khói bếp, bỏ rẫy rừng hoang phế, quên bài chiêng cổ, bạn ngồi uống bia trong tòa biệt thự, bạn lái xe sang hạ sơn xuống phố. Ðó là một thực tế khó cưỡng. Nhưng từ trong sâu thẳm, tôi vẫn cảm nhận cái tâm trạng nhớ núi ngay giữa vùng núi non đang từng ngày bị “hiến sinh” cho những dự án bất động sản trong ánh mắt bạn. Như hôm kia, tôi cùng Krajăn Plin, người đàn ông núi sinh ra ở triền phía bắc dãy Lang Biang, đứng bên bờ rào nhà anh ngắm khu đô thị mới hình thành với những con đường bê-tông đang trườn lên, liếm dần cái dãy núi từng sinh ra câu chuyện tình lãng mạn từ ngàn năm trước mà nói với nhau những điều về nỗi niềm núi và cả về những nguồn lợi từ việc ai đó đang san núi, cắm mốc phân lô…
Nhìn ánh mắt Plin mà tôi lại nhớ “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” cách nay gần hai trăm năm. Chuyện là, năm 1854, Tổng thống thứ 14 Hoa Kỳ Franklin Pierce muốn người da đỏ ở miền Tây nhượng bớt đất cho người da trắng. Tù trưởng của bộ lạc Duwamish và Supuamish đã trả lời với người đại diện của Tổng thống. Bức thư này được coi là văn kiện hay nhất xưa nay về mối quan hệ thiêng liêng của các tộc người thiểu số đối với đất đai quê hương ngàn đời của họ. Người con của núi non nước Mỹ nói lời gan ruột: “Khi người da trắng chết đi, họ thường dạo chơi giữa các vì sao và quên đi đất nước họ sinh ra. Còn chúng tôi, chúng tôi chẳng thể quên được mảnh đất tươi đẹp này. Bởi lẽ mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là người chị, người em của chúng tôi. Những đỉnh núi, mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều chung một gia đình”…
Cuối tháng ba vừa rồi, trên hành trình từ vùng Ðắk Nông qua Ðắk Lắk, tôi đã dừng lại dưới chân dãy Cư Yăng Sin mà ngắm núi lặng lẽ. Núi cao vẫn đó mà hồn núi nơi đâu? Tôi tìm kiếm hình ảnh thiêng liêng của Yàng P’nâm trên những địa tầng mỗi ngày mỗi bị cạo trọc lên tận chóp đỉnh, tìm kiếm Yàng trên những dòng suối khô cạn và đám rừng khộp xác xơ. Không chỉ Cư Yăng Sin, khắp mọi miền thượng du nước mình đều đang có những cuộc xâm lăng bạt núi, hạ rừng. Những làn sóng tàn phá được mệnh danh khai thác cho phát triển cứ đẩy lùi dần những ngọn núi đến với cao quạnh, cô liêu. Ðỉnh núi như ngày càng xa hơn. Chân núi thưa vắng sự sống của tự nhiên. Ký ức về một không gian núi cứ chập chờn ẩn hiện. Không lẽ rồi một ngày sẽ bay biến tất cả?! Cái điều mà Ph.Angel từng cảnh báo hồi thế kỷ 19: “Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là một lần giới tự nhiên lại trả thù chúng ta” quả thật vẫn mới. Khi Thượng đế trao cho con người quyền cai trị muôn loài nơi hạ giới, ngài cũng đồng thời căn dặn loài động vật bậc cao này biết độ lượng, yêu thương thiên nhiên. Nhưng bởi lòng tham, bởi sự ảo tưởng về tính kiêu hãnh, chính con người đã tận diệt chính không gian sống của mình mà quên rằng đó là việc làm hủy hoại giống loài. Một mai núi không còn rừng, không còn là nơi khơi mạch nguồn nước mẹ thì không chỉ con người mà e rằng những mùa sương, tháng gió cũng sẽ vô cùng hoang hoải, bơ vơ.
Lại thêm một lần xin cúi đầu trước núi, cái cúi đầu chung của loài người có tội! Và rồi, tôi đành phải bám vào một điều gì đó mà bản thân cũng không dám hằng tin, rằng có những điều bất biến, ít nhất là chính trong hồn cốt của nó. Vẫn biết rằng, núi rồi sẽ cạn kiệt, tàn tạ, khô cằn, nhưng tôi cứ mong “điều đó trôi đi, nhưng nó không trôi qua”. Ðó là một câu của Lászlo Krasznahorkai, nhà văn Hunggary, xin tạm mượn để thay cho lời niệm cầu: Linh hồn của những ngọn núi sẽ mãi mãi hoài sinh và kể những câu chuyện thiêng liêng bất tận giữa sơn nguyên bao la!...