Cái lý của thị trường

Thừa và thiếu là cảm nhận chung của không ít người khi nhìn vào danh sách 50 tác giả được Cục Mỹ thuật - Nhiếp ảnh và Triển lãm lựa chọn tham dự Triển lãm Mở cửa, đánh dấu cột mốc 30 năm đổi mới (1986-2016). Thừa những sự nhạt nhòa không dễ định danh, càng thiếu vắng hơn nữa những gương mặt nổi tiếng của thị trường - nôm na là những họa sĩ có tác phẩm được số đông nhà sưu tầm ưa chuộng, săn tìm và trả giá cao - những cá nhân đã xúc tác khiến mỹ thuật thời kỳ đổi mới trở nên sôi động, có đời sống xã hội rõ rệt... Tiêu chí của mỗi cuộc triển lãm, dù là quy mô cấp nhà nước, suy cho cùng cũng tương tự như định hướng của các cuộc thi hoa hậu. Hoa hậu này (chỉ) đẹp trong mắt ban giám khảo

Tranh của họa sĩ Thành Chương.
Tranh của họa sĩ Thành Chương.

Họa sĩ Thành Chương: Đó chỉ là sự ngụy biện

Là một trong 50 họa sĩ được mời tham gia triển lãm Mở cửa, ông hài lòng với cách lựa chọn của ban tổ chức chứ?

Trước hết phải nói thế này, dù ban tổ chức có chọn thế nào, chọn ai, chọn bao nhiêu tên tuổi thì cũng không thể tránh được những ý kiến này nọ bởi không có bản danh sách nào thỏa mãn tất cả mọi người. Cá nhân tôi cũng thấy triển lãm đã để sót, để thiếu một vài gương mặt đáng giá, đấy là điều tiếc nuối. Tuy nhiên tôi đánh giá cao ban tổ chức bởi lần này họ đã để các họa sĩ chủ động lựa chọn tác phẩm, không bày ra một hội đồng nghệ thuật xem trước rồi duyệt, rồi nâng lên đặt xuống. Đây cũng là sự thay đổi tư duy đáng ghi nhận.

Nói một cách ngắn gọn nhất, thành tựu của mỹ thuật trong 30 năm đổi mới là gì thưa ông?

Trước đổi mới, chúng ta đã trải qua thời kỳ quan liêu bao cấp với nền kinh tế kế hoạch tập trung. Trong bối cảnh đó, với nhận thức xã hội lúc đó, lúc mà cái tôi cá nhân bị triệt tiêu, cái chung, tinh thần tập thể được đề cao hơn hết, nghệ thuật nói chung, mỹ thuật nói riêng cũng phải tuân thủ mô hình xơ cứng kiểu xô viết. Mở cửa không chỉ đem lại sự phát triển vượt bậc về kinh tế, hơn thế nữa các nghệ sĩ tạo hình cũng bắt đầu được sống với cái tôi của mình, được thoải mái, tự do, để hình thành nên những cá tính nghệ thuật không trộn lẫn. Nhờ đổi mới, mỹ thuật bung ra, các nhà sưu tầm nước ngoài tìm đến, hệ thống gallery trong nước hình thành, thị trường mỹ thuật manh nha xuất hiện, tấp nập người mua, người bán. Thị trường đã góp phần kích thích trở lại sự sáng tạo của các nghệ sĩ, một điều mà các họa sĩ tiền đổi mới, nhất là các họa sĩ thời kỳ mỹ thuật Đông Dương không thể được tận hưởng.

Có thể nói Thành Chương là một trong những họa sĩ thành đạt bậc nhất của thời kỳ đổi mới cả về mặt nghệ thuật lẫn thị trường, hiểu theo nghĩa được đồng nghiệp, các nhà phê bình trong và ngoài nước công nhận, mến phục về tài năng. Thêm nữa, ông còn được thị trường chiều chuộng, với số lượng tranh bán ra có thời kỳ cũng thuộc hàng kỷ lục. Vậy theo ông, trong hội họa có sự tồn tại của quan niệm tranh nghệ thuật - tranh thị trường và hai dòng tranh này có là đối trọng của nhau, mâu thuẫn với nhau?

Nói tôi là họa sĩ của thời đổi mới thì cũng không hẳn chính xác bởi trước đó, từ thập niên 60, 70, tôi đã đi con đường riêng của tôi, có dấu ấn cá nhân không trộn lẫn. Vì không giống ai, không lẫn với số đông nên trước đổi mới, tranh của tôi lại ít được ghi nhận chính danh. Tôi không bao giờ được treo tranh triển lãm, chuyện học hành cũng bị khó dễ. Lúc mở cửa, tôi chỉ bước tiếp con đường của tôi, và được thị trường chấp nhận. Thị trường, tức những nhà sưu tầm, những người mua tranh vốn rất tinh. Đồng tiền liền khúc ruột, không ai bỏ tiền túi của mình ra để mua một sản phẩm tồi. Bạn có tiền, bạn muốn mua một món đồ dùng, bạn cũng sẽ cố gắng tìm chọn loại tốt nhất, đẹp nhất trong khả năng tài chính của bạn. Các họa sĩ vẽ tranh bán chạy cũng vậy, làm sao họ bắt được người mua mua tranh xấu của mình. Tất nhiên thực tế thì cũng có trường hợp, có người rất tài năng, tranh rất đẹp, rất nghệ thuật vẫn không ai mua. Ngược lại có người tranh thường thôi mà bán cực chạy. Nhưng đấy là hãn hữu, cá biệt, còn thị trường có lý của thị trường. Cái quan niệm tranh nghệ thuật - tranh thị trường chỉ là sự thỏa hiệp, cách tự an ủi của những người không bán được tranh, nói thẳng ra là một sự ngụy biện của những kẻ bất tài. Anh mà bán được tranh thì anh sẽ chỉ tập trung vẽ, dốc sức để sáng tạo ra những tác phẩm đẹp nhất, tốt nhất đáp ứng cho nhu cầu của thị trường - của người mua tranh. Anh dừng lại, đánh mất bản sắc của mình, thị trường cũng thờ ơ, quay lưng với anh ngay.

Thế nhưng hình như ngay trong quan niệm của các cơ quan quản lý nhà nước hình như cũng có sự “kỳ thị” với tranh thị trường, coi đấy là “bình dân” hóa thẩm mỹ của công chúng?

Thực tế là các cơ quan quản lý nhà nước về nghệ thuật, rồi các hội chuyên ngành nghệ thuật, mà ở ta thì rất nhiều hội, xưa nay toàn hoạt động bằng kinh phí nhà nước cấp. Họ hay rao giảng về tìm kiếm tác phẩm đỉnh cao, thiếu vắng tác phẩm đỉnh cao, nhưng thử nhìn xem, hoạt động của họ toàn là các hoạt động phong trào. Ở không ít nơi nếu bầu bán phải tranh thủ từng lá phiếu nên người ta không đầu tư cho chuyên nghiệp, không chú trọng đỉnh cao mà chỉ lăm lăm thúc đẩy phong trào, nhằm tranh thủ cảm tình của số đông. Anh được nhà nước cho tiền để làm nghệ thuật chuyên nghiệp, rồi anh chỉ nhăm nhăm đi làm phong trào, thúc đẩy nghiệp dư, đấy là lỗi của anh, trách nhiệm của anh chứ.

Họa sĩ Phạm Huy Thông: Tôi mơ một thị trường chuyên nghiệp hơn

Cái lý của thị trường ảnh 2

Là một họa sĩ được (bị) coi là trẻ, có cá tính và thành công (Nằm trong số 46 họa sĩ Việt Nam được Bảo tàng Mỹ thuật Singapore chọn tham gia triển lãm Post Đổi mới từ 2008, đã triển lãm cá nhân ở nước này), anh có quan tâm tới Triển lãm Mở cửa và đồng thuận với danh sách 50 họa sĩ mà ban tổ chức mời tham gia?

Trước khi trả lời câu hỏi, tôi muốn chia sẻ quan điểm của tôi: Nghiên cứu phê bình nghệ thuật là ngành khoa học của... cảm tính. Bởi vậy với mỗi nhà nghiên cứu, họ có những đánh giá riêng và sẽ không bao giờ có một đáp án chung cho những đề bài giống nhau. Tôi quan tâm tới triển lãm Mở cửa, cũng giống như quan tâm tới nhiều triển lãm khác. Đối với nghệ sĩ tạo hình, đi xem triển lãm cũng là một phần của công việc chuyên môn. Hàng năm, tôi đều để ra quỹ thời gian và tài chính nhất định để được đi xem các triển lãm. Vậy nên với Mở cửa, tôi rất vui mừng vì có cơ hội được làm chuyên môn là... đi thưởng ngoạn. Hơn nữa, đây là triển lãm mang tính tổng kết một chặng đường dài, nên tôi cũng thích thú khi được quan sát sự lựa chọn của các giám tuyển, so sánh xem lựa chọn của các vị ấy có khác gì các giám tuyển khác khi đứng trước cùng một đề bài đặt ra. Tất nhiên sự so sánh này không phải để lấy nhóm nào làm chuẩn, mà từ bối cảnh làm việc của các giám tuyển, tôi sẽ rút ra những suy ngẫm thú vị về cuộc đời. Chắc chắn không bao giờ có một đáp án chung. 50 họa sĩ được chọn (theo tôi biết, đến thời điểm này giảm xuống còn 49), sẽ là khiên cưỡng khi đặt ra vấn đề đồng thuận hay không.

Vậy nếu được chọn top 5, top 10 họa sĩ thời mở cửa anh chọn ai?

Mấu chốt trong việc chọn này hướng tới mục đích gì! Tôi có xu hướng thích thú với những họa sĩ có ảnh hưởng tới sự phát triển phong cách vẽ và quan điểm sáng tác của cá nhân tôi. Sẽ có những họa sĩ khác, không nằm trong top của tôi, dù rằng khách quan xem xét trong lịch sử mỹ thuật, họ cũng nổi tiếng và có những đóng góp, ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển chung. Tôi sẽ không ngại ngần chia sẻ top của tôi, nhưng có lẽ vào một thời điểm khác vì lúc này, dễ gây hiểu nhầm khi nói về sự lựa chọn riêng.

Với anh, điều gì quan trọng hơn, giá trị thị trường hay giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Một số họa sĩ nổi tiếng theo đuổi xu hướng decor, trang trí và đã thu được thành quả rất tốt về thương mại, đó có phải là cái đích nhắm đến cho các họa sĩ trẻ?

Cũng khó để hùng hồn tuyên bố rằng tôi coi trọng giá trị nghệ thuật của tác phẩm hơn thị trường. Khi tranh còn ở trong xưởng thì đối với họa sĩ nó chỉ có tính nghệ thuật, thò ra đến cửa thì tác phẩm ngay lập tức bị các giá trị của thị trường quy định. Tác phẩm có thể đến với công chúng qua nhiều con đường, trong đó có con đường mua bán chuyển nhượng. Những con đường khác đem lại sự động viên tinh thần, chỉ có con đường mua bán mới nuôi được họa sĩ mà thôi. Cơm áo thì chẳng bao giờ đùa với khách thơ. Tôi có cái bất hạnh là cách vẽ không “thị trường” nổi. Cũng nhiều khi muốn vẽ thế nào cho dễ bán chút chút, nhưng càng cố càng hỏng. Vậy nên tôi lại quay về với mục đích vẽ để thỏa mãn mình đã. Tôi nghiệm ra rằng, càng bức nào tôi giải tỏa được nhiều tâm trạng của chính mình, thì càng được người mua sớm sưu tập. Tất nhiên, nhóm khách hàng mua tranh tôi (thị trường của tôi) cũng không “phổ thông” lắm, nên mỗi năm tôi chỉ bán được vài bức. Thế cũng tạm ổn. Giá trị thị trường và giá trị nghệ thuật trong tranh tôi đang ôm ấp nhau theo một kiểu riêng. Ở nước ngoài, có những tên tuổi nghệ sĩ lớn, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nghệ thuật toàn cầu nhưng thực ra lại rất “thị trường”, hoặc nói cách khác là rất giỏi làm tiền từ nghệ thuật. Có thể kể ra những cái tên như Damien Hirst, Jeff Koon, Takashi Murakami, Ayoi Kusama... Bà họa sĩ điên (vì vào trại điên thật) Yayoi Kusama của Nhật Bản còn ký hợp đồng cho Louis Vuiton trang trí các gian hàng của họ trên toàn cầu theo phong cách của bà. Một số dòng sản phẩm túi xách, khăn quàng của Louis Vuiton cũng thiết kế theo phong cách tác phẩm của Ayoi Kusama. Trình độ làm hàng “thị trường” của các họa sĩ quốc tế ở đẳng cấp cao hơn rất nhiều, vì khả năng thưởng thức nghệ thuật của khách hàng phổ thông cũng cao hơn, các họa sĩ có cơ hội làm các tác phẩm “thị trường” ở mức “nghệ thuật” hơn, đỡ nhàm chán hơn. Nói lan man vậy để thấy, nhìn tranh các họa sĩ bán chạy của ta nhiều khi chán ốm, bởi thị trường mà họ muốn làm mưa làm gió còn ban sơ, trình độ thưởng thức phổ thông chưa cao, gu thưởng thức không đa dạng. Họa sĩ nào chẳng muốn tranh mình được nhiều người mua. Các họa sĩ trẻ, ngoài việc mơ mộng nổi tiếng, ai cấm họ mơ giàu có. Tiếc rằng, ước mơ của họ được gieo mầm trên một nền móng còn chật hẹp, không có nhiều chọn lựa. Tôi cũng đang mơ. Tôi mơ một ngày thị trường nghệ thuật ở Việt Nam chuyên nghiệp hơn, gu của công chúng đa dạng hơn, từ đó nhiều người “nuốt trôi” tranh tôi hơn. Lúc đó tác phẩm của tôi có bị gọi là tranh thị trường đi nữa thì cũng khoái lắm.

Họa sĩ Lê Thiết Cương: Dấu ấn quyền lực của các giám tuyển

Cái lý của thị trường ảnh 3

Anh hài lòng với những tác phẩm trưng bày tại triển lãm?

Tôi đã xem hết và thấy hài lòng. Các tác giả được tự chọn tác phẩm của mình nên đều thể hiện được dấu ấn cá nhân của từng người. Tuy nhiên đó chưa hẳn là tác phẩm đẹp nhất, vì đẹp nhất có thể đã nằm trong một bộ sưu tập nào đó ở nước ngoài rồi. Cuộc này không có hội đồng nghệ thuật, nên các giám tuyển phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và sự lựa chọn đấy thể hiện quyền lực của giám tuyển. Đây là một cách làm mới. Có thể thế nên chừng 80% họa sĩ tham gia là những người làm nghề độc lập, không phải quan chức đơn vị này hay lãnh đạo đơn vị kia như những cuộc khác.

Tuy nhiên anh có băn khoăn rằng lựa chọn của các giám tuyển đã vừa thừa vừa thiếu. Vậy theo anh thừa ở chỗ nào và thiếu ở chỗ nào?

Đúng thế, vừa thừa vừa thiếu. Thừa thì thôi tôi không tiện nói ra nhưng thiếu lại rất dễ nhận. Sự thiếu vắng dễ nhận thấy nhất là trường hợp nữ họa sĩ Đặng Thị Khuê, một người đổi mới ngay từ thời kỳ đầu, cùng với họa sĩ Nguyễn Quân. Hay các họa sĩ Nguyễn Thanh Bình, Bùi Hữu Hùng, Đào Hải Phong, Quách Đông Phương. Đây đều là những người tạo ra được khuynh hướng, làm nghệ thuật thì phải có dấu ấn cá nhân. Về điêu khắc có họa sĩ Văn Ngọc ở Vũng Tàu. Cũng có tiếng nói góp ý này kia nhưng các giám tuyển vẫn bảo lưu quyết định của họ và thể hiện quyền lực của giám tuyển.

Trên trang facebook cá nhân của mình, họa sĩ Mai Duy Minh - một trong những họa sĩ trẻ được lựa chọn có thông báo rằng anh ấy đã rút tranh khỏi triển lãm vì bị đề nghị đổi tác phẩm ở phút cuối do không phù hợp kích cỡ và chủ đề tư tưởng. Anh ấy tự thấy tranh của mình không có vi phạm gì đến mức phải đổi, nên đã chủ động rút lui ngay trước giờ khai mạc. Đây có phải là một sự cố đáng tiếc nữa?

Tôi không biết về chuyện này nhưng nếu có đi chăng nữa thì cũng bình thường. Đó chính là tinh thần của đổi mới, mở cửa đấy, mỗi cá nhân luôn chủ động chịu trách nhiệm về quyết định của chính mình...