Trước hết, chúng tôi thấy không tán thành với nhận định tiếp nữa của Tạp chí Thơ số 5-2012: "Ðến lượt nó, Thơ kháng chiến chống thực dân Pháp lại phủ nhận quyết liệt Thơ mới...". Thứ nhất, Thơ mới là thành tựu chứa đựng hồn vía dân tộc Việt ta, mà Thơ kháng chiến chống thực dân Pháp chắc chắn cũng mang nặng tấm lòng người Việt Nam. Cho rằng, hồn dân tộc những năm sau phủ nhận quyết liệt hồn dân tộc đời trước, là một nhận định cực đoan, không khoa học. Thứ nữa, Chế Lan Viên, Yến Lan, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Anh Thơ có đi vào kháng chiến chứ? Họ có phủ nhận Ðiêu tàn, Bến My Lăng, Lửa thiêng, Thơ thơ, Hoa niên, Bức tranh quê... không? Và nữa, Trần Mai Ninh thực chất là viết từ thời Thơ mới, Tự lực văn đoàn năm 1939 có trao giải thưởng cho tác phẩm Rạng đông của ông (báo Ngày nay số 208 đăng tin). Còn bài thơ Từ biệt, ông viết năm 1939, tặng các chiến sĩ trong đội quân quốc tế, thật dữ dội, thật lay động: "Chỉ một mình mạnh vươn trên bể máu.../ Quân quốc tế hát bài ca với lệ/ Ðã ngoảnh nhìn lần cuối Tây Ban Nha", sau này, vào cuộc kháng chiến khốc liệt, sáng tạo thơ đầy đặn hơn, nhưng Trần Mai Ninh có phủ nhận quyết liệt những gì mình đã viết không? Cả trường hợp Quang Dũng nữa, đăng thơ từ năm 1937, sau này vào kháng chiến chống thực dân Pháp, tác giả hai bài thơ nổi tiếng Tây tiến và Mắt người Sơn Tây, có phủ nhận quyết liệt bài Chiêu Quân viết hơn mười năm trước với câu chữ đa cảm thế này: "Tỳ bà lanh lảnh buốt cung thương.../ Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống/ Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang?". Chúng tôi nghĩ, những câu hay để đời của Quang Dũng trong bài Mắt người Sơn Tây: "Ðôi mắt người Sơn Tây/ U ẩn chiều lưu lạc/ Buồn viễn xứ khôn khuây", cũng vẫn là sự tiếp tiến của tâm hồn ông khi viết Chiêu Quân thôi... Sao lại thích quyết liệt phủ nhận thế nhỉ! Xin nêu một gợi ý rất đáng lưu tâm: Lê Tràng Kiều, nhà lý luận phê bình hàng đầu thời Thơ mới, ngay từ tháng 4-1936, đã viết trên Hà Nội báo: "Thời gian đã định đoạt cái giá trị của Thơ mới... Từ bây giờ lịch sử chỉ còn ghi lại những áng thơ hay mà thôi, không còn chia ra mới, cũ nữa". Chúng tôi nghĩ, Lê Tràng Kiều đã thật sâu xa khi nhìn nhận thơ dân tộc toàn vẹn trong một khối thống nhất, phát triển cũng để đi tới một chỉnh thể luôn đẹp đẽ hơn, của văn hóa Việt, của tâm hồn Việt Nam ta.
Lúc viết Ðèo Cả, Hữu Loan chưa biết bài thơ đầu tay đó của ông lại là bài thơ mở đầu cho Thơ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngôn ngữ thơ ông tự do, leo thang thoải mái, nói tới sự gian lao, nói tới máu lửa, rất thực và hào hùng, cao cả: "Rau khe/ cơm vắt/ áo phai màu sa trường.../ Gian nguy/ lòng không nhạt/ căm thù trăm năm xa/ máu thiêng sôi dào dạt/ tự nguồn thiêng ông cha". Rồi ít lâu sau, Trần Mai Ninh viết Nhớ máu với giọng thơ ngùn ngụt máu lửa, và bài Tình sông núi, xúc cảm thơ to rộng, kỳ vĩ, nhưng rất giàu mỹ cảm. Nói chính xác thì, khi Hữu Loan viết Ðèo Cả, Trần Mai Ninh viết Nhớ máu và Tình sông núi, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa còn chưa phát lệnh kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Trên thực tế, hai nhà thơ này đã bước vào cuộc kháng chiến với một tâm hồn hùng tráng, và ba bài thơ của hai ông là những bài thơ chiến đấu sớm nhất của nước Việt Nam dân chủ, độc lập. Có thể nói, đó là lịch sử tạo nên nhà thơ và thơ ca của mình! Lúc này, Nguyễn Ðình Thi còn chưa in những bài thơ tự do không vần; còn thêm một thời gian nữa mới có Nhớ của Hồng Nguyên, Tây tiến và Mắt người Sơn Tây của Quang Dũng, rồi Bên kia sông Ðuống của Hoàng Cầm...
Ðiểm lại như thế, thấy ngay rằng, Thơ kháng chiến chống thực dân Pháp đã đạt được thành tựu chủ đạo ngay những năm đầu dân tộc ta bước vào cuộc chiến tranh giữ nước thần thánh. Ðạt tới thành tựu cỡ như vậy, trào lưu thơ này phải có hai điều kiện tiên quyết. Một là, hồn thiêng dân tộc bùng phát cao ngất trong tâm hồn thi sĩ. Ðiều kiện này, chính cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 rung trời chuyển đất cùng sứ mệnh phải giữ lấy đất nước độc lập mà dân tộc mới giành được, đã đem đến cho toàn dân trong đó có các nhà thơ chiến sĩ. Hai là, phương pháp nghệ thuật mới nhất của thơ Việt. Ðiều kiện này, họ được Thơ mới tạo tiền đề cho.
Như đã nói ở trên, Trần Mai Ninh và Quang Dũng là hai tác giả xuất hiện từ thời kỳ Thơ mới, chắc chắn đã thấm vào họ ngôn ngữ Thơ mới. Nếu Siêu thực được các thi sĩ Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê tiếp thu một cách tài giỏi, sau tạo nên thơ kinh dị, thơ điên, thơ huyền diệu, thì nó cũng được Trần Mai Ninh tiếp nhận rất chọn lọc về văn hóa để viết: "Ơ, những người/ Ðen như mực, đặc thành keo/ Tròn một củ/ Hay những người gầy sắt lại/ Mặt rẹt một đường gươm...". Còn Hữu Loan, trước năm 1940, dù chưa đăng bài thơ nào, nhưng là một nhà giáo dạy văn, chắc không thể không là người yêu Thơ mới. Hoàng Cầm bắt đầu sáng tác từ 1941, sau này ông vẫn thường tâm sự: "Thời ấy, ai viết lách một chút đều yêu Thơ mới cả". Năm 1941 Nguyễn Ðình Thi đã viết một số bài giới thiệu về triết học phương Tây đương thời, và thực sự quan tâm đến văn chương, nên đã thấm vào ông những cái đẹp văn hóa của chủ nghĩa Tượng trưng, Siêu thực cùng Thơ mới. Và cả Tố Hữu, đại biểu quan trọng nhất của Thơ cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng là một thi sĩ sáng tác từ trước năm 1939, chả nhẽ ngôn ngữ Thơ mới đẹp đẽ không được ông tiếp thu, một cách có chọn lọc?...
Hiện tượng Tố Hữu, đặc sắc nhất khi sáng tác thơ theo các chủ đề, đề tài. Về phương diện đó, không nhà thơ cách mạng và kháng chiến nào sánh được với ông. Thành công đỉnh cao của Tố Hữu thể hiện qua các bài thơ đề tài, chủ đề lớn của đất nước, như Sáng tháng Năm, Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên, Ta đi tới, Việt Bắc... Sau Hội thảo lớn về thơ tại Việt Bắc, nhất là sau năm 1954, Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ Việt Nam. Các nhà thơ đi theo hướng của ông, thành dòng chảy chính thống. Thi sĩ lãng mạn Xuân Diệu tự coi mình là một kép xẩm, say mê cổ võ cho thơ "chân chân chân, thật thật thật".
---------------
(*) Xem từ Nhân Dân cuối tuần số 13 (1261).