Khi “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nhiều người đã mặc nhiên nghĩ ngay đến hầu đồng. Vậy hầu đồng chiếm vị trí thế nào trong tổng thể của di sản này và việc coi hầu đồng đồng nghĩa với tín ngưỡng thờ Mẫu có phải là cách nhìn nhận thiếu chính xác, thiếu công bằng thưa Giáo sư?
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt bao gồm nhiều thành tố như: Sáng tác văn chương của các thế hệ nhà nho từ Đoàn Thị Điểm thế kỷ 18 đến Khiếu Năng Tĩnh đầu thế kỷ 20, đều ghi chép lại huyền thoại về các nhân vật đã được lưu truyền trong đời sống... Huyền thoại hóa nhân vật được thờ cũng là một thành tố làm nên giá trị của tín ngưỡng; Các nghi lễ thờ cúng thí dụ như nghi lễ kéo chữ, đốt đuốc lên chùa, lễ vật dâng cúng. Trong hệ thống các nghi lễ này có nghi lễ hầu đồng hay còn gọi là lên đồng. Bản thân hầu đồng lại cũng bao hàm nhiều thành tố, thí dụ: Cô đồng, cậu đồng, ông đồng, bà đồng. Đây là những người mang đặc điểm mà dân gian gọi là có căn. Hầu đồng liên quan đến hệ thống các nhân vật hay tạm gọi các giá đồng, người bảo 36 giá, người thì bảo 72 giá. Khi thực hành nghi lễ các cô đồng, cậu đồng, ông đồng, bà đồng nhập vai từng giá đồng một. Không giống tín ngưỡng thờ Thành hoàng cúng trước ban thờ ở đình, tín ngưỡng thờ Mẫu trước ban thờ có chỗ cho các ông đồng, bà đồng trình diễn từng giá một... Mỗi giá đồng đều có trang phục khác nhau, biểu hiện cho những nhân vật khác nhau. Đặc điểm nữa của hầu đồng là phần hát các áng văn gọi là văn chầu, trình diễn kèm dàn nhạc. Nếu những nghi lễ kéo chữ, đốt đuốc, cúng trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ diễn ra vào ngày hội Phủ Dầy thì nghi lễ hầu đồng lại có thể diễn ra vào bất cứ ngày nào. Tuy nhiên dù hầu đồng là thành tố quan trọng và nhạy cảm bậc nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu, thì đánh đồng hoặc coi tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ có hầu đồng là thiếu chính xác, không công bằng, chưa hiểu đúng và hiểu hết giá trị của di sản...
Con đường để “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” trong đó có hầu đồng trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại quả là nhiều chông gai, khó khăn bởi từng có thời gian bản thân hầu đồng đã phải vượt lên định kiến ngay trong nước rằng đây là mê tín dị đoan
Các vương triều phong kiến đã không thích thú, từng quan niệm tín ngưỡng thờ Mẫu là dị đoan... Đến đầu thế kỷ 20, các nhà nho và cả các trí thức Tây học cũng nhìn nhận tín ngưỡng thờ Mẫu với con mắt nghi ngờ. Xuất phát từ ý thức hệ phong kiến vốn coi thường phụ nữ, nhưng tín ngưỡng thờ Mẫu ngược lại, đề cao phụ nữ, tôn thờ Mẫu - Mẹ nên không được xã hội xưa chấp nhận cũng là điều dễ hiểu. Giai đoạn trước và sau năm 1975 cũng có thời gian chúng ta cấm lễ hội Phủ Giầy. Những năm tháng đó chỉ có hai lễ hội danh chính ngôn thuận bị cấm thì Phủ Dầy là một... Khoảng năm 1995, tỉnh Nam Định mới cho mở thể nghiệm lễ hội Phủ Dầy. Năm 2005, chính tôi có chủ trì hội thảo 10 năm thể nghiệm lễ hội Phủ Dầy, sau đó lễ hội đã được tổ chức bình thường. Hầu đồng còn thêm giới hạn là các ông đồng, bà đồng thường phán bảo trước các ban thờ mẫu, nên cũng dễ bị xem là dị đoan... Thêm một thành tố nữa bị coi như hạn chế của hầu đồng chính là các đồ mã. Sử dụng đồ mã nhiều vừa lãng phí tiền bạc, vừa không thân thiện với môi trường, hơn nữa còn làm mất thiện cảm của dư luận...
Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước Đông - Nam Á và khu vực châu Phi cũng có những sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tương tự hầu đồng. Vậy đâu là yếu tố làm nên sự khác biệt của hầu đồng và thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt để thuyết phục được UNESCO?
Trước hết do giá trị văn hóa mang đặc thù Việt Nam của di sản. Thật ra một số nước, Trung Quốc chẳng hạn cũng có tục thờ Mẫu, như thờ Thiên Hậu và họ đã được công nhận trước chúng ta. Còn ở châu Phi phổ biến là hình thức saman giáo chứ không phải hầu đồng. Hệ thống các nhân vật được thờ trong tín ngưỡng thờ Mẫu hầu hết là các nhân vật gắn với lịch sử văn hóa, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Âm nhạc cũng là thành tố riêng biệt, độc đáo làm nên giá trị của hầu đồng và vì thế đã chinh phục được UNESCO...
Đánh đồng hoặc coi tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ có hầu đồng là thiếu chính xác, không công bằng, chưa hiểu đúng và hiểu hết giá trị của di sản...
Một giá đồng trong chương trình biểu diễn Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ tại phủ Vân Cát (Nam Định). Ảnh | Đức Diệp
Từ việc bị coi như dị đoan, đến khi được công nhận và công khai hoạt động, rồi trở thành thành tố của di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, hầu đồng đã trải qua quá trình hoạt động, phát triển tự phát. Vậy theo Giáo sư, thực tế liệu có chuyện lợi dụng hầu đồng, lợi dụng một hoạt động văn hóa tín ngưỡng để thực hành mê tín dị đoan?
Riêng tại Nam Định có gần 400 di tích liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu, tập trung ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản với hai phủ Tiên Hương và Vân Cát... Hà Nội thì có phủ Tây Hồ, rồi Lạng Sơn, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An vào đến Huế cũng có di tích liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu... Điều này chứng tỏ sức sống của tín ngưỡng thờ Mẫu trong tâm thức dân gian. Tín ngưỡng thờ Mẫu lại hội nhập với việc thờ Trần Hưng Đạo, nên trong các đền phủ thờ Mẫu bao giờ cũng có ban Trần Triều. Bởi vậy cũng có hai dòng ông đồng, bà đồng gồm các thanh đồng liên quan đến tín ngưỡng thờ Trần Hưng Đạo và phần còn lại, các ông đồng, bà đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu. Trước đây người ta phân biệt như thế nhưng giờ lại cứ gọi chung là thanh đồng. Thanh đồng và hầu đồng liên quan đến tín ngưỡng thờ Trần Hưng Đạo có làm các động tác xiên lình, tức lấy que xuyên qua miệng... Động tác này phổ biến trong những tôn giáo ở Ấn Độ. Ông đồng, bà đồng trong hầu đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu thì không có xiên lình... Nhưng đến nay động tác xiên lình đã bỏ hết, ông đồng, bà đồng phán bảo cũng hầu như không còn. Tôi không lo chuyện hầu đồng bị biến tướng vì cuộc sống sẽ tự đào thải, sàng lọc đi những điều không còn phù hợp. Quản lý tín ngưỡng không thể dùng tư duy duy lý. Nếu có điều kiện thì nên nghiêm khắc với lượng đồ mã dùng trong mỗi cuộc hầu. Có thể thảo luận bàn bạc với các chủ thể, các ông đồng, bà đồng... để hạn chế đốt mã... Trong dân gian cũng quy định, cau trầu thì bao nhiêu, vàng mã thì bao nhiêu, thí dụ toàn phải số lẻ. Hiện tại các đền phủ đã thực hiện rất tốt nội dung không cho mang hương vào bên trong, chỉ cần có quy định và kiên quyết thực hiện theo...
Hầu đồng là một trong số ít các di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại có thể tự thân tồn tại mà không cần đến những kêu gọi tài trợ kinh phí bảo tồn từ phía nhà nước. Vậy theo Giáo sư, làm cách nào để hầu đồng tiếp tục sống văn minh, văn hóa trong không gian tín ngưỡng thờ Mẫu, xứng đáng với sự tôn vinh của UNESCO?
Đúng vậy. Theo tôi cả hai phía chủ thể và khách thể đều phải có trách nhiệm. Chủ thể là những người thực thi tín ngưỡng, tổ chức lễ hội, quản lý xã hội ở khu vực ấy. Khách thể chính là những người đến dự xem và chứng kiến. Hai phía này đều phải nhận thức được giá trị của di sản. Chủ thể làm cho người ta hiểu. Tôi thấy bà con mình nhiều người đi lễ, vào đền phủ khấn vái cầu xin mà còn không biết nơi đó thờ ai, có lịch sử thế nào. Chủ thể phải giúp khách thể hiểu điều đó. Trước hết chủ thể phải hiểu việc họ đang làm. Thí dụ đi lễ đầu xuân lấy lộc, ngồi dự một giá đồng sao cho văn hóa, đúng mực, chứ đừng làm con gà tức nhau tiếng gáy, ông đồng kia cầm tiền múa thế này, ông đồng khác múa thế nọ. Nhận thức đúng về chính giá trị của di sản thì mới giữ gìn, tuân thủ và thực hành đúng được. Hầu đồng không lo mai một, thất truyền như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, dù đã được UNESCO công nhận. Nhưng tôi vẫn nhấn mạnh, nếu không kiên quyết với đồ mã thì hầu đồng cũng trở nên tốn kém, lãng phí và hủy hoại môi trường, rồi dần sự thiện cảm của cộng đồng cũng có thể mai một đi...
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!