Văn nghệ sĩ Việt Nam:
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
VÀ KHÁT VỌNG CỐNG HIẾN
Từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, văn nghệ sĩ Việt Nam chưa bao giờ đứng ngoài những thăng trầm của dân tộc. Họ là người nói lên tiếng nói của nhân dân - từ “Bình Ngô đại cáo” đanh thép như một bản tuyên ngôn độc lập, khúc “Tiến quân ca” ra trận, đến những bản trường ca, bức tranh, thước phim đi cùng những nẻo đường kháng chiến và công cuộc đổi mới gần 40 năm qua. Ở mỗi thời, người nghệ sĩ đều là chứng nhân, là người kể lại linh hồn của lịch sử, là “trụ cột mềm” của tinh thần dân tộc. Nhưng trong dòng chảy hôm nay, khi nghệ thuật chịu sức ép thương mại, công nghệ và thị hiếu tức thời, khi tự do sáng tạo nhiều khi va chạm với trách nhiệm xã hội, vai trò của người nghệ sĩ đang đứng trước thử thách lớn: giữ được bản lĩnh, dám lên tiếng, trung thành với giá trị nhân văn giữa những ồn ào của thời đại. Họ không chỉ là người sáng tạo cái đẹp, mà còn là người gìn giữ lương tri, khơi dậy ý thức và niềm tin của cộng đồng.
Tiêu điểm “Văn nghệ sĩ Việt Nam: trách nhiệm xã hội và khát vọng cống hiến” đề cập đa chiều và sâu sắc vai trò công dân và sứ mệnh xã hội của người nghệ sĩ trong thời đại mới - khi nghệ thuật đang bị cuốn vào dòng xoáy thị trường, danh tiếng và lượt xem nhiều khi lấn át giá trị nhân văn; khi những biến động xã hội đòi hỏi tiếng nói trung thực, nhưng không ít người lại chọn im lặng.
Giữa tự do sáng tạo và trách nhiệm công dân, giữa lý tưởng nghệ thuật và sức ép thương mại, người nghệ sĩ hôm nay phải đối mặt với câu hỏi lớn: họ sẽ chỉ làm đẹp thế giới, hay còn góp phần làm cho thế giới tốt đẹp hơn? Và để họ có thể thật sự trở thành một lực lượng kiến tạo xã hội, cần khơi dậy niềm tin, nuôi dưỡng môi trường sáng tạo có trách nhiệm và trao cho họ vị thế xứng đáng. Bởi nếu chiến sĩ giữ gìn biên cương Tổ quốc, thì văn nghệ sĩ gìn giữ biên cương của tâm hồn dân tộc - một biên cương mềm, nhưng không thể thiếu cho sức sống Việt Nam hôm nay.
Nghệ sĩ - chiến sĩ và hành trình
gắn bó với vận mệnh đất nước
Nhìn lại hành trình của văn nghệ sĩ Việt Nam suốt gần một thế kỷ qua, có thể thấy họ luôn hiện diện trong những bước ngoặt của lịch sử dân tộc. Họ sáng tạo cái đẹp, dùng nghệ thuật để đối thoại với thời cuộc, khơi dậy niềm tin, lay động lương tri, đánh thức những giá trị bền vững của con người Việt Nam và giữ vững tâm thế của dân tộc trong những thời khắc gian nan nhất.
Khi văn nghệ là một mặt trận
Những năm đầu thế kỷ XX, khi dân tộc rên xiết dưới ách nô lệ, máu của nghĩa sĩ và những người cộng sản đổ xuống cho khát vọng độc lập, thì cũng là lúc một bộ phận văn nghệ sĩ còn mải mê trong vỏ ốc của “cái tôi”. Nhà thơ Chế Lan Viên, sau này đã để lại những câu thơ như một lời nhắc nhở thức tỉnh: “Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không / Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy”.
Từ Cách mạng Tháng Tám, đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam thật sự bước lên một con đường mới - con đường của dân tộc, dứt khoát “nhận đường” đi theo cách mạng. Cái “nhận đường” ấy, như Nguyễn Đình Thi viết năm 1947, không chỉ là lựa chọn chính trị mà còn là một sự giác ngộ tinh thần - khi người nghệ sĩ hiểu rằng sứ mệnh của mình gắn chặt với nhân dân, với Tổ quốc.
Cũng chính là Chế Lan Viên, nhưng không còn muốn cô đơn trôi nổi giữa “tinh cầu giá lạnh” của cái tôi cô lập nữa. Ông trở về với nhân dân bằng hình ảnh dịu dàng và thấm thía: “Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ/Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa”.
Nguyễn Tuân cũng là một minh chứng tiêu biểu cho bước ngoặt ấy. Từ người nghệ sĩ tài hoa, từng say mê cái đẹp thuần túy của riêng mình, ông đã rũ bỏ áo dài, khăn xếp để khoác lên bộ ka-ki vàng, nam tiến cùng đồng bào, biến ngòi bút thành vũ khí tinh thần. Cùng với ông, nhiều nhà văn khác cũng hòa mình vào kháng chiến, làm nên một thế hệ nhà văn, chiến sĩ cầm bút hòa chung nhịp thở với dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Nam Cao và Nguyễn Thi đã đi trọn con đường ấy bằng cả cây bút và sinh mệnh. Người ngã xuống giữa vùng chiêm trũng Ninh Bình, mang theo bản thảo chưa kịp hoàn thành; người ngã xuống giữa lòng Sài Gòn, trong tay vẫn còn khẩu súng và cuốn sổ ghi chép dở. Họ viết và sống như chính những nhân vật của mình - chân thực, quả cảm và tận hiến.
Âm nhạc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chính là một bản sử thi của thời đại. Ca khúc Giải phóng quân của Phan Huỳnh Điểu được viết tại Đà Nẵng, khi ông bắt gặp hình ảnh những đoàn quân nam tiến rầm rập ra trận. Cảm xúc dâng trào từ khoảnh khắc ấy đã hóa thành giai điệu, và chỉ trong thời gian ngắn, bài hát lan truyền rộng khắp, trở thành tiếng hát đồng hành của những người lính lên đường. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng viết: “Giữa những loạt súng nổ ran, chợt nghe tiếng hát của chiến sĩ ta... Vào những giờ phút ác liệt của chiến tranh, tiếng hát có tác dụng kỳ lạ”. Quả đúng vậy, lời ca, tiếng hát đã trở thành vũ khí tinh thần, tiếp sức cho những người lính nơi tuyến lửa.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, biết bao văn nghệ sĩ đã vừa cầm súng, vừa cầm bút, cầm đàn, sát cánh cùng nhân dân trên mọi mặt trận tư tưởng-văn hóa. Những tên tuổi như Tố Hữu, Văn Cao, Phạm Tuyên, Lưu Hữu Phước, Hoàng Vân, Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân, Tường Vy, Trà Giang... cùng nhiều văn nghệ sĩ khác đã lan tỏa khí thế cách mạng, ca ngợi lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh của quân dân ta, để lại di sản tinh thần quý giá, giúp các thế hệ mai sau thấu hiểu giá trị của độc lập, tự do và những hiến dâng không thể nào quên của cha ông.
Soi chiếu đời thường,
hành trình “nhận đường” thời bình
Sau chiến tranh, khi khói lửa đã lùi xa, người nghệ sĩ vẫn tiếp tục vai trò “ghi biên niên ký của hòa bình”. Nếu trong chiến trận họ cầm bút như cầm súng, thì trong hòa bình, họ lại cầm bút để hàn gắn, để xoa dịu lại những vết thương chưa lành.
Bước vào thời Đổi mới, văn học chuyển từ khúc tráng ca thời chiến sang những trang văn soi chiếu đời thường, dám đối diện những vết thương và bi kịch của con người. Nguyễn Minh Châu với Phiên chợ Giát, Lê Lựu với Thời xa vắng, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, hay Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma đều đã đặt lại câu hỏi: con người đi qua chiến tranh bằng cách nào và để lại trong lòng họ điều gì? Từ những trang viết ấy, văn học Việt Nam kể lại một giai đoạn lịch sử, khởi động cuộc đối thoại sâu sắc về lẽ sống, nhân phẩm và khát vọng làm người.
Âm nhạc cũng chuyển mình. Từ tiếng kèn xung trận, người nhạc sĩ quay trở lại với đời sống, với những khúc trầm của ký ức và tình yêu. Trịnh Công Sơn viết Một cõi đi về, Cát Bụi như những lời tự sự nhân thế; Phú Quang với Em ơi Hà Nội phố; Nguyễn Cường với Ly cà phê Ban Mê đem lại giai điệu mới cho tâm hồn hậu chiến những lắng dịu, chiêm nghiệm, nhưng vẫn chan chứa khát vọng sống.
Trong điện ảnh, Bao giờ cho đến tháng Mười (Đặng Nhật Minh) đánh dấu sự trưởng thành của nghệ thuật kể chuyện Việt Nam. Bộ phim không có tiếng súng, không có anh hùng, mà chỉ có sự hy sinh thầm lặng và nhân hậu của người phụ nữ nông thôn mang nỗi đau mất chồng trong chiến tranh nhưng vẫn giữ vẹn lòng chung thủy, khiến tác phẩm chạm vào trái tim hàng triệu khán giả, được báo Time (Mỹ) bình chọn là một trong 18 bộ phim châu Á hay nhất mọi thời đại.
Bộ phim tài liệu Chuyện tử tế (1985) dám nhìn thẳng vào thực tế những năm hậu chiến: sự tha hóa, mất mát đạo đức, và khát vọng tìm lại “chữ tử tế” trong đời sống. Đạo diễn Trần Văn Thủy chia sẻ: “Tôi cứ đi và gặp, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe. Có lúc vui, có lúc buồn, có khi bàng hoàng. Nhưng càng đi, tôi càng tin rằng: trong cuộc sống này, điều tử tế vẫn còn, dù ít ỏi. Và tôi đi tìm cái tử tế như người ta đi tìm nước giữa sa mạc”. Đó vừa là tuyên ngôn nghề nghiệp vừa là lời nhắc về sứ mệnh của người nghệ sĩ - soi sáng bóng tối bằng ánh sáng của nhân văn.
Từ văn chương, âm nhạc đến điện ảnh, hội họa... có thể thấy văn nghệ sĩ Việt Nam mang tiếng nói của dân tộc - tiếng nói phản ánh cả vinh quang lẫn khổ đau, cả niềm tin và sự day dứt. Họ không đứng ngoài thời cuộc, mà đi thẳng vào những góc tối của đời sống để tìm ánh sáng cho con người.
Vì thế, trong mọi giai đoạn, nghệ sĩ đích thực tạo ra cái đẹp phản ánh lương tri, nhân nghĩa và lòng tử tế của cộng đồng; tiếng nói của họ có khi trở thành tiếng nói của dân tộc, và họ có thể được coi là những “trụ cột mềm” góp phần gìn giữ tinh thần và nuôi dưỡng niềm tin.
Tại buổi gặp mặt đại biểu văn nghệ sĩ chiều 30/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Văn nghệ sĩ phải không ngừng bám sát nhịp sống, hơi thở của nhân dân, hòa mình cùng đất nước, dám đi vào những vấn đề gai góc, phức tạp, nhạy cảm của cộng đồng, đến với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, biên cương, hải đảo, phát hiện và phản ánh những nhân tố mới, cách làm hay, những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các nhiệm vụ của xã hội. Vốn sống của văn nghệ sĩ phải vươn ra khắp mọi miền Tổ quốc; phải đập cùng nhịp đập trái tim của Tổ quốc”.
Toàn cảnh hội nghị toàn quốc tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước. Ảnh: TTXVN
Toàn cảnh hội nghị toàn quốc tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước. Ảnh: TTXVN
Văn học nghệ thuật đương đại -
“bờ sông lặng gió”?
Thế nhưng, sau những đóng góp to lớn và mùa vàng bội thu, văn học nghệ thuật hôm nay bắt đầu xuất hiện những vụ mùa thất bát, những dấu hiệu chững lại với nhiều khoảng lặng, để lộ không ít giới hạn.
Sự “mất mùa” liên tiếp trong các cuộc thi văn chương vốn rất uy tín như một cảnh báo nghệ thuật đương đại đang đứng trước nguy cơ trở thành “bờ sông lặng sóng” khi người nghệ sĩ chỉ tìm cách sáng tác “cho đúng mực”, né tránh xung đột, đau khổ hay những góc khuất con người, thì tác phẩm chỉ còn là phiên bản bảo tàng của cảm xúc cũ, chứ không phải tiếng vọng mới từ thực tế.
Nhà văn trẻ Trần Văn Thiên đặt câu hỏi: “Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình? Dường như chúng ta vẫn còn phải khéo léo uốn nắn, tránh né nhiều chỗ trong tác phẩm để vượt qua khâu kiểm duyệt, hay chấp nhận chọn một tác phẩm an toàn để vinh danh”. Theo ông Thiên, không gian cho thử nghiệm cũng hạn chế, bởi các tạp chí và kênh văn học theo xu hướng mở chưa nhiều. Việc sống trọn vẹn bằng nghề viết trong bối cảnh hiện nay gần như bất khả, khiến không ít cây bút nghiêng về thị trường, chuộng lối viết dễ đọc. Hệ quả là xuất hiện nhiều tác phẩm na ná nhau, thiếu sức bật nội tại và văn chương dễ rơi vào trạng thái chững lại.
Nhà thơ người Tày Phùng Thị Hương Ly thẳng thắn bày tỏ về hiện tượng đáng lo ngại là nhiều người viết dễ rơi vào ảo tưởng về giá trị sáng tạo của bản thân, dễ bằng lòng với những lời khen, số lượt chia sẻ trên mạng xã hội hay những lời tung hô lẫn nhau. Sự động viên ấy nếu không đi cùng phản biện sẽ vô tình tạo nên ảo giác về “thành công”, khiến người viết không còn giữ được tỉnh táo để nhìn nhận và rèn giũa ngòi bút của mình và vô hình trung khiến văn chương bị bào mòn. Luôn đau đáu về đề tài miền núi, chị chia sẻ thực tế phần lớn người viết dân tộc thiểu số đang sáng tác trong sự đơn độc, ít cơ hội xuất bản, ít được tham gia các diễn đàn học thuật và gần như thiếu môi trường phản biện; có những tác phẩm rất hay, nhưng ít người biết đến.
Không gian công bố tác phẩm cũng thu hẹp dần. Báo và tạp chí văn nghệ in ít đi, các trang mạng văn học chính thống hoạt động mờ nhạt, khiến hành trình đưa tác phẩm đến tay bạn đọc thêm nhiều trở ngại. Trong bối cảnh đó, năng lực cất cánh của văn học nghệ thuật, dù còn dồi dào, vẫn bị kìm hãm bởi chính những giới hạn của hệ sinh thái sáng tạo hiện nay. Đời sống đổi thay, nhu cầu thẩm mỹ biến chuyển, và cả những văn nghệ sĩ đôi lúc cũng bối rối, hoang mang giữa thời cuộc.
Nhưng dù trải qua những khúc quanh và khoảng lặng, dòng chảy văn học-nghệ thuật vẫn miên trường, hứa hẹn những sáng tạo mới và tiếp tục soi rọi đời sống bằng ánh sáng của Chân-Thiện-Mỹ.
Nhà văn Nguyễn Hoàng Diệu Thủy chỉ dẫn những con số “biết nói”: tổng doanh thu toàn ngành xuất bản là hơn 4.500 tỷ đồng, một nửa dành cho sách giáo khoa và giáo trình; phần còn lại chia cho sách phi hư cấu, truyện tranh, văn chương chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Sách của các tác giả đương đại Việt Nam, nhất là tác giả trẻ thường chỉ in một, hai nghìn bản và hiếm khi tái bản.
Tổ chức thực hiện :
Ban Nhân Dân hằng tháng
Nội dung :
Hồng Thắng-Lữ Mai-Bình Nguyên Trang-Phùng Nguyên
Trình bày mỹ thuật :
Duy Thanh
Ảnh :
TTXVN, Thành Đạt, nguồn internet.
