Nhà quay phim, NSND Nguyễn Văn Nẫm:

Người chép sử bằng hình

"Trong số 30 học viên của lớp quay phim mặt trận ngày ấy, ba đồng nghiệp đã anh dũng hy sinh. Nhiều người, trong đó có tôi đã ra khỏi cuộc chiến với di chứng chất độc da cam cùng những vết thương vẫn chưa thôi nhức nhối trên thân mình.

Người chép sử bằng hình

Nhưng chúng tôi luôn tự hào, khi vinh dự được trở thành những phóng viên chiến trường xông pha nơi mưa bom bão đạn và có cơ hội lưu giữ những trang sử dân tộc rất đỗi hào hùng bằng hình ảnh" - NSND Nguyễn Văn Nẫm (ảnh bên) bồi hồi nhớ lại, khi dấu mốc kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước đã cận kề.

Khóa quay phim "độc nhất vô nhị"

Được biết đó là khóa đào tạo quay phim mặt trận duy nhất trong suốt chiều dài lịch sử 67 năm của nền điện ảnh Cách mạng Việt Nam. Tiêu chuẩn tuyển chọn học viên ngày ấy có gì đặc biệt, thưa ông?

Quãng thời gian 1965 - 1966 cũng là lúc đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến ra toàn Đông Dương. Bổ sung lực lượng quay phim cho các chiến trường trọng điểm vốn rất thiếu và yếu đã trở thành một yêu cầu cấp bách. Ngày ấy, tôi đang đảm nhận công việc thiết kế chữ, vẽ động cho phim khoa học cùng phim tài liệu lịch sử tại Xưởng phim Thời sự Tài liệu Việt Nam. Biết Bộ Văn hóa và Xưởng phim quyết định mở lớp, tôi lập tức đăng ký tham dự. Tiêu chuẩn chọn lựa rất đơn giản, bất kỳ ai đã tốt nghiệp phổ thông, có sức khỏe, nhiệt tình và không nề hà gian khổ, hy sinh đều được đón nhận. Vì đầu vào rất mở nên học viên trẻ nhất chỉ 19 tuổi nhưng "anh cả" của lớp đã ở tuổi 50. Thời gian học tập trung 18 tháng, tại địa điểm sơ tán của Xưởng phim ở Hoài Đức. Được các thầy Nguyễn Hồng Nghi, Trần Hữu Tước, Nguyễn Tư Trai... chỉ bảo tận tình, lớp chúng tôi bắt đầu được làm quen với máy móc từ con số 0 tròn trĩnh. Chụp ảnh - viết tin bài - quay phim là những kỹ năng mà chúng tôi được đào tạo kỹ càng, để có thể tác nghiệp như một phóng viên đa năng ngay giữa điểm nóng chiến sự ác liệt. Rồi học cả cách in tráng ảnh, học cách bảo quản phim đã quay giữa điều kiện khắc nghiệt thời chiến. Bao nhiêu vốn liếng lý thuyết và thực tế tích lũy, các thầy truyền thụ tất cả cho chúng tôi, với mong muốn các học trò làm tròn sứ mệnh "chép sử bằng hình".

Và tất cả đã hăm hở lên đường ra tiền tuyến, ngay sau khi nhận chứng chỉ tốt nghiệp?

Đâu có đơn giản thế, bởi không chỉ đảm nhiệm vai trò nghệ sĩ điện ảnh, để có thể dấn thân vào nơi đạn bom ác liệt, chúng tôi phải trang bị những kỹ năng chiến đấu của người lính thực thụ. Hoàn thành khóa học, chúng tôi tiếp tục trải qua ba tháng huấn luyện ở Trường 105 thuộc Ban Thống nhất trên Hòa Bình. Cũng tập đeo gạch hành quân, tập sử dụng cả súng ngắn lẫn AK như một tân binh sắp vào trận.

Người chép sử bằng hình ảnh 1

Nhà quay phim Nguyễn Văn Nẫm (phải) đang tác nghiệp tại Thành cổ Quảng Trị, ngày 1-5-1972 (Cảnh trích trong bộ phim “Quảng Trị ngày đầu giải phóng”).

Ngày chia tay, chúng tôi vui vẻ chụp hình kỷ niệm, từng tổ rồi cả lớp. Không nói ra nhưng ai cũng nghĩ, chiến tranh ác liệt thế, chắc gì còn cơ hội gặp lại nhau. Khi ấy chúng tôi "máu lửa" lắm, chẳng biết sợ chết là gì. Nhiệt huyết tuổi trẻ cùng lý tưởng sống và chiến đấu được minh định đã giúp những chàng quay phim hào hứng chọn đối mặt với cuộc chiến khốc liệt ở góc độ trần trụi nhất, sinh tử nhất. Tất cả đều khắc ghi lời dặn của các thầy: "Các em phải học thật tốt, làm thật tốt để có thể ghi lại những thước phim chiến tranh chân thực cho các thế hệ mai sau và giúp họ hiểu rõ, lớp cha ông đã chiến đấu và hy sinh xương máu ra sao để có được một đất nước hòa bình". Lần đầu gặp mặt sau chiến tranh, chúng tôi đã tới thăm thầy Hồng Nghi. Tôi nhớ thầy rất vui, khi lứa học trò ngày nào đã hoàn thành tâm nguyện mà các thầy luôn ấp ủ.

Những thước phim phải đánh đổi bằng máu

Kể từ đó, bước chân ông đã in dấu trên rất nhiều tuyến lửa. Và nhờ vậy, những trang sử bằng hình ảnh mà ông lưu giữ cứ ngày một dày thêm, với rất nhiều khoảnh khắc vô giá?

Cùng hai đồng nghiệp Văn Yên và Lê Quang La, chúng tôi làm nhiệm vụ quốc tế tại chiến trường C của nước bạn Lào. Hành trang gắn liền trên mọi nẻo đường hành quân luôn lỉnh kỉnh máy quay, ắc quy, thùng phim bên cạnh súng đạn cùng ba lô với tổng trọng lượng khoảng từ 15 đến 20 kg. Ba năm dọc ngang hành quân trên đất bạn, đối mặt với đạn bom ác liệt và thú dữ luôn rình rập trên mỗi bước đường, chúng tôi đã lưu giữ trong ống kính hàng nghìn mét phim tư liệu quý giá mà một phần nhỏ trong số đó được tái hiện trong bộ phim Giải phóng Mường Phìn. Nhờ tác phẩm này, tôi được nước bạn trao tặng Huy chương anh dũng chống Mỹ.

Vừa trở về nước, đầu năm 1972, tôi lại tiếp tục cùng hai đồng nghiệp xung phong đi B, vượt dãy Trường Sơn vào Quảng Bình, Vĩnh Linh rồi Quảng Trị. Trên đường hành quân, chúng tôi "săn" máy bay cháy, quay những làng mạc tan hoang dưới mưa bom bão đạn. Tôi cũng được sống cùng bà con dưới địa đạo Vĩnh Mốc, theo bước chân bộ đội lướt qua Cồn Tiên - Dốc Miếu, ngủ dưới hầm ở Bắc Cửa Việt, vào Thành cổ Quảng Trị trong ngày đầu giải phóng... Ngược ra bắc, tôi vác máy quay trực chiến tại các trọng điểm ở Hà Nội trong những ngày lịch sử diễn ra trận Điện Biên Phủ trên không. Rồi ngay sau thời khắc giải phóng Sài Gòn, tôi cùng ba đồng nghiệp ngồi trên trực thăng cả tháng trời để ghi hình toàn bộ các căn cứ quân sự của Mỹ nguỵ từ sông Bến Hải vào tới Sài Gòn, từ Côn Đảo ra tận Phú Quốc. Có thể nói, công việc quay phim đã cho tôi cơ hội trở thành một chứng nhân lịch sử. Nhờ chiếc máy quay, tôi đã ghi lại được rất nhiều hình ảnh tư liệu quý mà ấn tượng nhất là khung cảnh Thành cổ bị bom đạn băm nát và ngổn ngang xác giặc, cảnh bộ đội hò reo kéo lê xác B52 trên đường Hoàng Hoa Thám...

Nhưng cái giá phải trả để có được những mét phim vô giá ấy cũng rất đắt, thưa ông?

Trên đường đi B, ngang qua nông trường Việt Trung, nơi ba đồng nghiệp Nguyễn Ngọc Hồi, Đinh Văn Nhạ và Nguyễn Ngọc Khuê hy sinh khi nhận nhiệm vụ mang những thước phim Lũy thép Vĩnh Linh đã quay ra Hà Nội in tráng, chúng tôi đã rẽ vào thắp hương cho các anh. Rồi sau này biết tin ba bạn cùng lớp là Đinh Quang Ba, Lê Viết Ất, Nguyễn Văn Đinh đều anh dũng hy sinh tại chiến trường Đông Nam Bộ; biết nhiều bạn trở thành thương binh như Từ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Phú Sỹ cùng vài bạn mang trong mình di chứng chất độc da cam, tôi luôn nghĩ những thước phim ngày ấy đều phải đánh đổi bằng máu của những quay phim chiến trường. Những đồng nghiệp của tôi. Những bè bạn của tôi.

Người chép sử bằng hình ảnh 2

Nhà quay phim Nguyễn Văn Nẫm đang tác nghiệp tại Quảng Bình, tháng 4 năm 1972.

Bản thân tôi cũng đã hai lần bị thương, một lần ở chân khi đang quay hình cột cờ Hiền Lương, một lần vào đầu khi đang quay cảnh B52 rải thảm ở Đài Phát thanh Mễ Trì. Dọc đường Trường Sơn, phía ngoài hàng rào điện tử Mac Namara hay bên ngoài thị xã Quảng Trị, chúng tôi lặng lẽ hành quân trong làn sương trắng mù mịt của chất độc da cam... Thế hệ chúng tôi đã chấp nhận mọi hy sinh, mạo hiểm với mạng sống của chính mình để lưu lại cho đời sau những ký ức chiến tranh khốc liệt ấy. Lần nào gặp lại các bạn cùng lớp, chúng tôi cũng nhắc đi nhắc lại một câu, "không hiểu sao bọn mình còn sống sót để trở về". Hồi ức những tháng ngày chênh vênh giữa lằn ranh sống chết vẫn đeo bám tới tận hôm nay, vẫn hiện hữu trong từng giấc mơ, như vừa mới hôm qua vậy.

Nhưng trên hết, chúng tôi vẫn thấy mình may mắn. Được trở thành chứng nhân lịch sử, được chép sử bằng hình. Đâu phải nghệ sĩ điện ảnh nào cùng thế hệ chúng tôi cũng có được những trải nghiệm khó quên đến thế!

Nhà quay phim Nguyễn Văn Nẫm (bút danh Lê Mai Phong) sinh năm 1944 tại Ba Vì, Hà Nội. Tốt nghiệp khóa đào tạo thiết kế mỹ thuật của Trường Điện ảnh Việt Nam năm 1964, ông về công tác tại Xưởng phim Thời sự Tài liệu Việt Nam như một họa sĩ thiết kế. Hoàn thành khóa đào tạo quay phim chiến trường năm 1968, ông ôm máy quay xông xáo lao vào những trận tuyến ác liệt nhất.

Những thước phim nóng bỏng tính thời sự đó đã giúp ông cùng các đồng nghiệp có được nhiều tác phẩm giá trị như Giải phóng Mường Phìn, Niềm vui của O Thử, Quảng Trị ngày đầu giải phóng, Tội ác tột cùng - Trừng phạt đích đáng... và giành giải cao trong nhiều kỳ Liên hoan Phim Việt Nam.

Ông được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân - Huy chương, được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu NSƯT năm 2001 và NSND năm 2019.