Phục hưng uy tín cho hội họa Việt

Đáp ứng kịp thời bức xúc âm ỉ từ lâu trong dư luận về nạn tranh giả, tranh chép, sáng 29-7, tại trụ sở 71 Hàng Trống, Báo Nhân Dân, ban Nhân Dân hằng tháng đã tổ chức Tọa đàm “Hướng tới thị trường mỹ thuật minh bạch”. Tọa đàm có sự tham gia, hưởng ứng nhiệt tình của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu phê bình, nhà sưu tầm và nhất là các họa sĩ đương đại - những nạn nhân trực tiếp của vấn nạn tranh giả: Nhà báo Phan Huy Hiền - Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, các họa sĩ Vi Kiến Thành, Lương Xuân Đoàn, Đặng Xuân Hòa, Hồng Việt Dũng, Đinh Quân, Lê Thiết Cương, Lý Trực Dũng, Lê Trí Dũng, Nguyễn Xuân Tiệp, Phạm Hà Hải, Bùi Mai Hiê

Quang cảnh buổi tọa đàm Hướng tới thị trường mỹ thuật minh bạch.
Quang cảnh buổi tọa đàm Hướng tới thị trường mỹ thuật minh bạch.

Có những đường dây làm tranh giả an toàn và bền vững

Nhà báo Hữu Việt - Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Báo Nhân Dân: Câu chuyện tranh giả, tranh chép không phải bây giờ mới được biết đến vì sự cố triển lãm tai tiếng “Những bức tranh trở về từ châu Âu”. Hình như chính giới mỹ thuật cũng ngầm biết, vẫn có một thị trường tranh giả, tranh chép hoạt động ngầm nhưng sôi động và gây tổn hại rất lớn cho uy tín cũng như giá trị thương hiệu của mỹ thuật Việt Nam?

Họa sĩ Lương Xuân Đoàn - Phó Chủ tịch thường trực Hội Mỹ thuật Việt Nam: Đúng là tôi phải chia sẻ với nỗi đau ba thập kỷ của giới mỹ thuật... Ta đã đặt ra những câu hỏi chấm lửng, tại sao lại có những đường dây làm tranh giả hết sức an toàn và bền vững. Ngay từ thành công đầu tiên của mỹ thuật đổi mới đã kéo theo sự hình thành hệ thống gallery từ bắc vào nam, hình thành một thị trường nội địa cho dù tự phát trong mấy thập kỷ qua. Lẽ ra nó phải song hành cùng những đóng góp của giới họa sĩ thế hệ đổi mới và tạo nên gương mặt đẹp của mỹ thuật đổi mới trong cái nhìn của bạn bè quốc tế. Tiếc thay, hình ảnh đẹp đó không tồn tại được bao lâu bởi vấn nạn tranh giả. Chứng kiến 17 bức trong triển lãm “Những bức tranh trở về từ châu Âu” của ông Vũ Xuân Chung tại Bảo tàng mỹ thuật (BTMT) TP Hồ Chí Minh, tôi cực kỳ buồn vì nghề làm tranh giả của Việt Nam, họ đã bôi nhọ hình ảnh thật sự của các danh họa. Những bức tranh ngô ngọng về ngôn ngữ, chất liệu, bút pháp và số 0 về cảm xúc, hoàn toàn vô cảm. Không hiểu các chuyên gia thẩm định châu Á, những nhà sưu tầm nước ngoài có tin đó là tranh của danh họa Việt Nam không? Chúng tôi không thể đứng lâu trong phòng tranh đó vì những áp lực về mặt thị giác. Điều đó cho thấy lộ trình tranh giả tuồn ra nước ngoài rất an toàn. Tại sao quản lý nhà nước chịu bó tay để tuột khỏi vòng kiểm soát? Nếu các danh họa còn sống, thì câu chuyện này còn tang thương tới đâu khi những sáng tác của mình trở nên méo mó, vẹo vọ đến vậy?

Nhà sưu tầm Nguyễn Mạnh Phúc: Có thực tế là, hiện nay có một số người buôn bán cổ vật (không phải sưu tầm) thấy tranh có giá trị nên chuyển sang buôn bán tranh. Các cơ quan truyền thông có tiếp tay, tâng bốc họ là nhà sưu tầm nổi tiếng góp công đưa các tuyệt phẩm của đất nước trở về. Như mọi người nói, họ làm phải có đường dây. Theo tôi, đường dây này xuất phát từ TP Hồ Chí Minh. Gần đây có người mua tranh nhờ tôi thẩm định tranh của Tạ Tỵ, xuất xứ từ TP Hồ Chí Minh. Tôi nói về chất liệu, Tạ Tỵ không nghèo tới mức phải vẽ tranh trên bìa các-tông, ông lại vẽ lập thể, năm sáng tác đề 1972. Tạ Tỵ có ba giai đoạn sáng tác, từ tốt nghiệp tới 1950 vẽ tả thực, 1950 đến 1960 đi về lập thể với một triển lãm năm 1951, tôi cũng đã sưu tầm được hai bức. Từ 1960 trở đi, Tạ Tỵ vẽ trừu tượng. Thứ ba, đó là bức tranh chép từ Picasso. Ba yếu tố đó khiến tôi kết luận tranh giả. Người mua quyết định mang trả, bị chủ bán tranh mắng là không hiểu gì về Tạ Tỵ. Ta phải xem xét đây có thể là cả đường dây chứ không phải một cá nhân. Đáng trách nhất là các cơ quan quản lý. Việc xảy ra và kéo dài mấy chục năm mà các cơ quan quản lý không vào cuộc. Lẽ ra, phải có hội đồng thẩm định, có cơ quan bán đấu giá từ lâu rồi.

Họa sĩ Bùi Mai Hiên: Tôi cũng biết đã xuất hiện một số nhà sưu tầm đồ cổ chuyển sang chơi tranh Đông Dương. Giới này vì không mê tranh nên họ không mua, không triển lãm tranh của các họa sĩ đương đại, dù rất đẹp và giá rẻ. Họ chỉ thích sưu tầm tranh của các họa sĩ Đông Dương, lão thành hoặc đã mất do dễ lăng xê, có thể sang nước ngoài mua, có thể làm nhiều cách đẩy giá lên. Vì thế, nếu vụ triển lãm của ông Vũ Xuân Chung không bị phát hiện thì hầu hết giới đồ cổ sẽ lao vào và từ đó, nảy sinh ra những vụ việc tiếp theo. Họ bỏ rất nhiều tiền nhưng chủ yếu mua bằng tai, mua bằng lợi nhuận để đẩy giá lên.

Họa sĩ Lê Thiết Cương: Tôi lại không đồng ý với ý kiến của các vị, vì đã là thị trường thì phải có kẻ mua, người bán, chỉ có điều không được mua bán tranh giả. Nếu bây giờ thị trường có 100 người buôn đồ cổ chuyển sang buôn tranh, mua tranh ở các buổi đấu giá nước ngoài mang về thì rất tốt. Có thể họ không yêu tranh, không sưu tầm tranh nhưng thị trường cần nhiều người mua bán, nhiều triển lãm, nhiều sách mỹ thuật. Thế mới minh bạch được.

Họa sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng: Tôi là người va chạm với tranh thật - giả khá nhiều năm, đã làm việc với họa sĩ, nhà buôn tranh, nhà sưu tầm. Tôi được nhà sưu tầm nhờ biên soạn một số cuốn sách, việc đầu tiên là thẩm định tranh thật hay không vì liên quan trực tiếp đến tài sản của họ và uy tín của tôi. Việc này rất gay go vì nhà sưu tầm mà tôi từng làm việc không phải là người làm tranh giả, không muốn mua tranh giả. Khi làm, có xảy ra những điều tế nhị. Cuốn Tô Ngọc Vân, tôi phải nghiên cứu 280 bức tranh, ký họa. Đây là công việc quá sức với một cá nhân. Nguồn tranh đến từ gia đình họa sĩ nhưng tôi vẫn đành bỏ ra 26 tấm. Một số tôi phải chấp nhận vì có nội dung để viết (cụ vẽ thời kháng chiến nhưng chỉ là chép lại một tranh khác, tranh gốc không biết ở đâu). Tôi chọn ghi Artist Studio (tranh từ xưởng của họa sĩ), xác định được nội dung và lịch sử của bức tranh, còn họa sĩ vẽ bao nhiêu phần trăm thì không dám chắc. Cuốn 2 về bộ sưu tập của Nguyễn Minh bày ở BTMT Việt Nam thì toàn bộ tranh trong nước tôi xác định được hết nhưng với bốn họa sĩ sống ở nước ngoài, tranh đem từ nước ngoài về (Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Mai Trung Thứ) phức tạp hơn nhiều. Riêng Lê Phổ vô cùng khó khăn vì nếu tranh do người trong nước chép rất dễ xác định do non nghề. Nhưng người nước ngoài chép tranh đều là bậc thầy, tay nghề giỏi vô cùng, tất cả những người ở đây không ai đủ trình độ xác định đây có phải là bản chính? Như người ta nói, cái gì làm giả được chứ tâm hồn thì không. Tôi không hiểu tâm hồn Lê Phổ vì ông sống ở nước ngoài từ năm 1932. Người phương tây không hiểu tâm hồn Việt Nam của Lê Phổ, còn người Việt Nam không hiểu tâm hồn Việt kiểu của ông. Vì thế tôi yêu cầu chủ bức tranh cung cấp thông tin (mua ngày nào, số đấu giá, ở đâu, số tiền mua). Hiện thuế nhập khẩu 5% là quá cao, không khuyến khích phát triển văn hóa, không khuyến khích người ta đem tác phẩm về nước. Tệ nạn làm tranh giả trong nước dễ xác định, chứ ở ngoài nước không xác định nổi, vì chúng ta không hoạt động cũng không nghiên cứu gì ở nước ngoài.


Minh bạch từ… chính họa sĩ

Nhà báo Hữu Việt: Không chỉ tranh của các họa sĩ của thời kỳ mỹ thuật Đông Dương, mà tranh của các họa sĩ nổi tiếng đương thời cũng bị làm giả rất nhiều. Vậy các họa sĩ chúng ta đang hoạt động, đang làm nghề lại bất lực trước vấn nạn này?

Họa sĩ Đào Hải Phong: Hiện trạng này là cái giá phải trả cho tất cả những gì ta đã làm. Trong lịch sử trước đây, bảo tàng đã rất sai lầm, rất thiếu hiểu biết khi đặt họa sĩ vẽ lại tranh mình. Vậy nên hậu quả chúng ta đang lĩnh là đương nhiên. Cá nhân tôi đã nhận được nhiều lời mời vẽ lại tranh của mình vừa bán nhưng tôi không bao giờ làm, tại sao phải tự lặp lại mình. Chỉ người nào rất kém mới làm vậy. Đừng lặp lại sai lầm mà cha ông chúng ta đã làm. Anh Thành Chương hay tôi, hay họa sĩ Đinh Quân bị chép tranh giả rất nhiều. Khi Việt Nam có thị trường mỹ thuật thì tự khắc nó sẽ minh bạch. Không ai bỏ một số tiền thật lớn mà mua hố một cái gì cả. Tự các họa sĩ phải bảo vệ mình thôi. Chúng ta nên tôn trọng tài năng của các đồng nghiệp. Khi các cơ quan tổ chức đưa tác phẩm nghệ thuật trở thành tài sản, thành một mặt hàng văn hóa để trao tặng một cách nghiêm chỉnh thì tự khắc thị trường sẽ minh bạch.

Họa sĩ Đinh Quân: Tôi cũng biết một số tụ điểm từng vẽ và chép tranh của tôi. Đây là một thảm cảnh nhưng chúng tôi không biết làm cách nào để khắc phục nếu không có một chế tài hình sự. Tại sao giá tranh Việt Nam thấp? Vì Việt Nam chưa có thị trường mỹ thuật, vì các họa sĩ không có điểm tựa. Tôi nghĩ, truyền thông cũng rất quan trọng. Sau khi truyền thông phản ánh, cơ quan điều tra nên vào cuộc và xử lý hình sự những vụ việc cụ thể đó để làm gương.

Họa sĩ Lê Thiết Cương: Làm tranh giả nên bị coi đó là tội phạm hình sự. Đã đến lúc bắt buộc phải có Hội đồng Thẩm định quốc gia. Hiện đã có Hội đồng Di sản quốc gia, nhưng trong đó không có đại diện của giới mỹ thuật. Bây giờ, cần có thêm hội đồng nghệ thuật cấp quốc gia nữa.



Họa sĩ Lương Xuân Đoàn: Gần đây, trong câu chuyện tranh Việt hồi hương, đã có không ít tranh giả. Có một con đường vòng vèo, kín đáo sang châu Âu rồi quay về Việt Nam để tạo chứng lý hợp pháp cho tranh giả... Nó cũng tác động trực tiếp tới các họa sĩ trẻ đương đại, liệu họ có đủ tự tin để công bố một triển lãm khi biết những kẻ làm giả phát hiện triển vọng bán tranh của họ trong tương lai? Mỹ thuật Việt Nam đứng trước một không gian sáng tạo không an toàn. Vậy nên, muốn Nhà nước bảo hộ quyền tác giả thì các họa sĩ phải đi đăng ký bản quyền. Hội Mỹ thuật Việt Nam luôn đứng bên và bảo vệ hội viên của mình nhưng chức năng giải quyết, phân định thật giả lại không phải của hội. 10 năm trước, anh Vi Kiến Thành đã tiên đoán được thực trạng này nên kiến nghị thành lập Trung tâm giám định tại BTMT nhưng sau đó nguội dần, không ai có nhu cầu tới giám định. Sàn đấu giá nội địa đầu tiên cũng có những trục trặc. Chúng ta chưa làm quen với những yếu tố cần phải có của một thị trường mỹ thuật. Tôi tin, với những nỗ lực của tất cả mọi người, một môi trường mỹ thuật thanh sạch sẽ trở lại, không ai phải nơm nớp lo lắng những kẻ làm giả luôn dòm ngó, chờ đợi tuồn hàng giả ra nước ngoài rồi quay trở lại.

Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: Nguồn làm tranh giả xuất phát từ họa sĩ là chính, đó là vấn đề nội bộ của các họa sĩ. Tranh giả càng đắt tiền, họa sĩ chép tranh càng giỏi. Tôi lại không nghĩ rằng cái gì cũng phải hình sự hóa bởi trong hoạt động nghệ thuật có vấn đề danh dự. Các gallery, họa sĩ, nhà sưu tầm tham gia làm tranh giả nếu bị “tuyên án” bằng danh dự sẽ mất cửa làm nghề. Ông Vũ Xuân Chung sau vụ vừa rồi coi như hết đường làm ăn mà không cần trừng phạt thêm nữa.



Nhà báo Hữu Việt: Vấn đề quan trọng hiện nay là phải có Trung tâm giám định quốc gia và sự cấp bách xây dựng hệ thống pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh tác phẩm nghệ thuật...?

Tiến sĩ, nhà nghiên cứu mỹ thuật, dịch giả Phạm Long: Nếu có Trung tâm giám định, bước đầu tiên nên thẩm định toàn bộ hệ thống tranh của các BTMT, các nhà truyền thống có tác phẩm đã được nhân bản theo yêu cầu của Nhà nước. Sau khi thẩm định, lập ra một bộ hồ sơ nghiêm chỉnh. Trung tâm không cần đợi yêu cầu của bên ngoài, việc cần làm ngay đó cũng phải thực hiện mất hai, ba năm. Tôi được biết một số nước cũng có thị trường tranh phiên bản nhưng có luật pháp, có hệ thống để kiểm soát giúp thỏa mãn người muốn chơi tranh chép, mà không lẫn lộn giá trị thực. Nhiều nước cũng có hội đồng thẩm định nghệ thuật quốc gia, những tổ chức tư nhân, nhà thẩm định độc lập phải tự chịu trách nhiệm về sự thẩm định của mình. Tất cả đều có luật sư bên cạnh. Để minh bạch hóa nguồn tranh, các gallery nên hình thành một hiệp hội bảo vệ nhau nhằm không lọt tranh giả trong hệ thống lưu thông, buôn bán. Bảo vệ giá trị nguyên bản của bức tranh của các họa sĩ còn sống hay đã mất, các nước rất chú trọng làm tổng tập, lập những bộ hồ sơ chi tiết: tranh gốc, những tranh đã chép, đã lưu thông trên thị trường với bằng chứng cụ thể để các cá nhân và bảo tàng nắm được. Nếu có trao đổi tranh, kiện tụng, họ nắm rất sát thông tin. Họa sĩ đang sống rất có ý thức lập hồ sơ cụ thể cho từng bức tranh, tranh chép được đánh số cụ thể.

Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: Tôi vẫn lập hồ sơ với những họa sĩ tôi nghiên cứu. Nhưng nhìn lại trong nước thì trống rỗng, những họa sĩ nhận giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước không cơ quan nào bỏ kinh phí nghiên cứu về họ. Vậy lấy cớ gì để xác định tranh thật - giả? Công tác giám định tranh là khoa học. Tranh của người ta hàng đống tiền, lại tuyên bố giả thì “ăn đá” đương nhiên. Như anh Thành Chương nói, bức tranh ký tên Tạ Tỵ là của mình thì cũng phải chứng minh (đã có một người Pháp gợi ý cần chụp tia cực tím nếu thấy phía dưới bức tranh có chữ ký Thành Chương thì mới xác nhận được). Chỉ nói mồm thì không phải bằng cớ hình sự. Người giám định vì thế phải được bí mật tên tuổi, có công cụ khoa học hỗ trợ. Phía công an cũng chưa có chuyên môn để hình sự hóa các vụ việc liên quan đến tranh giả.

TS Phạm Long: Tôi biết Hàn Quốc là một nước có nhiều tranh giả, chiếm tới 30-35% thị trường. Bộ Văn hóa của họ cũng đang tìm cách tổ chức các cuộc hội thảo để tìm giải pháp. Bên đó thực hiện rất quyết liệt với sự tham gia của hệ thống lập pháp và hành pháp, hoạt động độc lập. Chúng ta nên học tập các kinh nghiệm của họ.



Họa sĩ Phan Cẩm Thượng: Thật ra, thị trường tranh Việt Nam vẫn nghiệp dư (trên thế giới, chủ gallery phải có bằng, ở ta, chả ông chủ nào có bằng cả, thế mà vẫn “lái” nghệ thuật đi hết chỗ này chỗ kia). Bản thân cơ quan Nhà nước đặt tranh chép, các gallery bán tranh chép, chả có chế tài nào ngăn ngừa. Vì thế, trước hết BTMTphải bỏ đi những bức tranh giả, tôi chưa thấy bảo tàng nào tệ như ở ta. Cơ quan nhà nước không thể treo tranh dởm, chủ gallery phải đi học, phải chấn chỉnh về mặt luật pháp với cửa hàng tranh chép. Chúng ta nên có luật về hoạt động kinh doanh tác phẩm nghệ thuật. Hiện Nhà nước cũng không kiểm soát được, nhiều tranh bán ra nước ngoài, không có thuế hoặc thuế chui, hoặc bị đánh thuế quá cao. Tiền thẩm định phải tương quan với giá trị tranh nhưng hiện trong luật đều không quy định. Luật cũng phải đưa ra là khi tôi đã mua một bức tranh, quyền của tôi tới đâu (tôi có thể thêm chữ ký, sửa chữa, hay thậm chí xé nó đi hay không). Những cái đó ta chưa bao giờ nghĩ đến. Ví như một người Nhật bỏ 53 triệu USD mua bức “Hoa diên vĩ” của Van Gogh, giờ không biết bức tranh đó ở đâu. Người ta nói ông ấy đã chôn bức tranh theo mình, không ai còn được thưởng thức. Việc ông Chung chữa bức tranh của anh Thành Chương, ký Tạ Tỵ thì anh Chương có quyền với nó nữa không cũng còn phải bàn, anh Chương thu tiền về rồi, quyền sở hữu không thuộc về anh nữa.

Họa sĩ Vi Kiến Thành - Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Triển lãm: Với phận sự của mình, việc tôi có thể làm được ngay là sớm có ngân hàng dữ liệu tác giả, tác phẩm. Đúng là cần có đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về các danh họa của chúng ta. Còn ba việc sau tôi không tự biến thành hiện thực được mà đòi hỏi có sự đồng bộ của rất nhiều cơ quan nên tôi chỉ đề xuất và đưa ra phương án: Thứ nhất, là thành lập ngay ba trung tâm giám định và đấu giá tác phẩm nghệ thuật tại ba BTMT: BTMT Việt Nam, BTMT Đà Nẵng và BTMT TP Hồ Chí Minh. Việc này không dễ, vì BTMT Việt Nam thuộc quản lý của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Hai bảo tàng còn lại thuộc UBND hai thành phố nên phải được hai cơ quan này đồng ý. Tái lập Trung tâm giám định ở BTMT Việt Nam và thêm hai trung tâm ở hai thành phố là mong muốn của giới mỹ thuật, nhưng có thành hay không là một chặng đường nan giải. Thứ hai, cũng là giải pháp để minh bạch: Anh em họa sĩ chịu khó đăng ký bản quyền để có chứng lý cho những việc phát sinh sau này. Ta có Cục Bản quyền đã hoạt động lâu nhưng gần như chả có họa sĩ nào đi đăng ký trừ giới mỹ thuật ứng dụng. Điều nữa là các họa sĩ phải nộp thuế, hóa đơn cũng chính là bằng chứng để khẳng định giao dịch đã diễn ra một cách minh bạch, công khai. Rất nhiều giao dịch trực tiếp với họa sĩ không có thuế. Và giờ thì người mua cũng phải yêu cầu có hóa đơn để làm bằng chứng.



Họa sĩ Lê Thiết Cương: Tôi xin phép nói thêm, ta không cần đến ba trung tâm giám định đặt ở ba miền mà chỉ cần một Hội đồng Thẩm định quốc gia, có vai trò, chức năng như Hội đồng Di sản quốc gia là được. Cũng không nên chỉ có ba trung tâm đấu giá do Nhà nước quản lý mà tư nhân cũng có quyền lập công ty đấu giá và một thị trường minh bạch thì cần càng nhiều công ty đấu giá càng tốt...

Nhà báo Phan Huy Hiền - Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân: Trước hết thay mặt cho Ban Biên tập Báo Nhân Dân, tôi trân trọng cảm ơn các quý vị đã tới tham dự buổi Tọa đàm và đóng góp những ý kiến quý báu. Hôm nay, có mặt cả các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu phê bình, các nhà sưu tầm và đặc biệt là anh em họa sĩ - những nạn nhân trực tiếp của nạn tranh chép, tranh giả… Từ những trao đổi, phân tích của các quý vị tôi thật sự thấy Việt Nam đã có một di sản hội họa vô giá - đấy là những tác phẩm quý giá của các họa sĩ thời kỳ mỹ thuật Đông Dương, cả các họa sĩ thế hệ sau đó và thế hệ đổi mới. Thật tiếc, từ những lý do khách quan của lịch sử và sau này cộng thêm những toan tính thủ đoạn xấu của một số cá nhân, nhiều báu vật hội họa đã bị thất lạc, bị làm giả, làm nhái, gây nên những tác hại, những hậu quả khó định lượng cho văn hóa Việt Nam, mỹ thuật Việt Nam nói chung, và bản thân các họa sĩ nói riêng… Dù xuất phát từ nguyên nhân nào, diễn biến ra sao, thì tôi vẫn hy vọng sau Tọa đàm này, sau sự lên tiếng của Báo Nhân Dân, các cấp có thẩm quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ vào cuộc một cách tích cực, khẩn trương bằng những phần việc cụ thể như các quý vị đã nêu ra: Xây dựng ngân hàng dữ liệu về các họa sĩ, xây dựng hệ thống pháp luật liên quan, xây dựng các trung tâm giám định, các sàn đấu giá… Tất cả để minh bạch hóa thị trường mỹ thuật, bảo vệ gìn giữ di sản của cha ông và tạo điều kiện tối ưu cho các nghệ sĩ sáng tác… Nhưng, như chúng ta đã chỉ rõ, chính các họa sĩ cũng phải tham góp vào quá trình này bằng cách tuân thủ các quy định đã có của pháp luật, đóng thuế đầy đủ và không tham gia sao chép tranh, dù là tranh của chính mình…

Với những nỗ lực của tất cả mọi người, một môi trường mỹ thuật thanh sạch sẽ trở lại, không ai phải nơm nớp lo lắng những kẻ làm giả luôn dòm ngó, chờ đợi tuồn hàng giả ra nước ngoài rồi quay trở lại.

Có thể bạn quan tâm