KỶ NIỆM 70 NĂM CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ (7/5/1954-7/5/2024)

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Kỳ 1: NHỮNG "CỘT MỐC" KHÍ THẾ VÀ KIÊU HÃNH

Được hình thành trước cả con đường huyền thoại 559, và được tạo nên, được vận hành gần như hoàn toàn bởi những người nông dân chân đất, phần nhiều trong đó còn chưa biết chữ, với trang thiết bị hết sức thô sơ, ăn đói, mặc rét, song con đường tiếp vận cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa, lại luôn tràn ngập tiếng cười, sự sáng tạo, gan dạ để khắc phục mọi gian nguy, trở ngại. Đó là biểu tượng chói ngời, vĩnh cửu của sức mạnh dân tộc trong cuộc kháng chiến thần thánh bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Những nhân chứng lịch sử mà chúng tôi tìm gặp ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La hay Điện Biên... người "trẻ" nhất cũng đã 88 tuổi. Trong ký ức đang dần bị lớp màn thời gian nghiệt ngã bao phủ của họ, Điện Biên Phủ vẫn là ánh lửa chớp lóe, với khí thế và niềm phấn khích của một thời tuổi trẻ.

1 "Tôi là thanh niên xung phong ở đội 34, có nhiệm vụ làm đường giao thông. Đơn vị tôi từ Thanh Hóa lên Cò Nòi (Sơn La) cuối năm 1953, sau đó lại di chuyển tiếp lên đoạn đầu đèo Pha Đin"- cụ Lê Văn Du (sinh năm 1937, thôn Đạt Tiến II, xã Tế Nông, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa) hào hứng, sang sảng kể. Trong ký ức của cụ, những ngày tháng đó, máy bay địch đánh phá rất ác liệt, đủ loại bom: bom napalm, bom bi, bom nổ chậm… thường xuyên gây tắc đường, nên thanh niên xung phong phải lao ra sửa đường. Có thanh niên xung phong đã phải ngồi lên bom nổ chậm để phát hiện khi nào bom nóng lên thì báo động, để bộ đội ta hành quân đi qua cho kịp giờ, sau đó mới vào phá bom. Chúng tôi nhận tin chiến dịch qua dân công hỏa tuyến từ tiền tuyến truyền về, như là hôm nay đánh Him Lam, đánh đồi A1, chia cắt được bao nhiêu phần của sân bay Mường Thanh... Tinh thần anh em khí thế lắm. Làm đường này, vác gạo, vác đạn…

Cụ Lê Văn Du

Cụ Lê Văn Du

Lúc đó tôi thích vào bộ đội, nhưng người ta về tuyển đi thanh niên xung phong thì đi, chứ không phải cứ thích là được đi. Thanh niên xung phong lúc đó, như đại tướng Võ Nguyên Giáp nói là được trang bị ưu tiên như bộ đội, được bán vũ trang so với bộ đội, hai người 1 khẩu súng, quần áo, mũ được mặc như bộ đội, nhưng mũ không có sao. Làng tôi có 7 người đi, nhưng giờ chỉ còn mình tôi.

Chúng tôi đi bộ từ Thanh Hóa lên, chủ yếu gánh thực phẩm. Đi đến đâu thì lấy gạo ở các kho dọc đường để ăn. Mất 1 tháng 10 ngày mới lên đến Cò Nòi (Sơn La). Bản thân tôi bị sốt rét đấy, nhưng mệt quá thì nằm xuống nghỉ, y tá tiêm cho một phát, khỏe lên lại đi thôi chứ không thấy sợ. Trước chiến dịch chỉ đi đêm, ngày nghỉ, vì máy bay bắn phá. Đường ra trận vui lắm, còn hơn trẩy hội bây giờ.

Cũng có nhiều người ốm đau, xanh xao vàng vọt phải đưa về địa phương nhưng chúng tôi vẫn không sợ, là vì khí thế thanh niên lúc đó "tất cả cho tiền tuyến" nên hăng hái lắm. Chúng tôi đều nghĩ, đã là thanh niên xung phong thì kháng chiến thành công mới về.

- Từ bé đến khi đó bác đã từng thấy tên lính Pháp nào chưa ạ?

- Chưa từng thấy. Lên đến Sơn La cũng không thấy. Nhưng năm 1952, đã có 27 đợt máy bay của Pháp đánh phá Thanh Hóa, khiếp lắm, nên căm thù. Với lại lúc đó dù chưa thấy tên Pháp nào, phim ảnh cũng không có, nhưng thấy nó đến xâm chiếm nước mình thì thấy căm thù. Tôi đã xung phong đi bộ đội nhiều lần nhưng không đủ sức khỏe nên không được nhận, sau đó lại xung phong đi tiếp thanh niên xung phong. Lúc đó tôi thấp nhỏ, chỉ nặng 45kg, cao 1m55, vẫn quyết tâm đi. Số phận và sự luyện tập giúp tôi khỏe mạnh đến giờ.

2 Sinh năm 1932, nhưng trong ký ức của cụ Trần Xuất Chúng (xã Hưng Nghĩa, Hưng Nguyên, Nghệ An) vẫn nhớ rõ nhiều chi tiết của những tháng ngày tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ: Tôi xung phong đi bộ đội, năm 1952, lúc đầu được vào đơn vị phòng không. Lúc đó đại đội trưởng là Hoàng Minh Thảo, rất giỏi. Tôi cũng có băn khoăn: Em người thấp nhỏ thì có theo được không? Anh ấy động viên: Em cứ ở đây, ăn cơm bộ đội rồi sẽ cao lên, nghe vậy tôi cũng phấn khởi. Đến khi tập luyện được hai tháng thì một hôm đại đội trưởng tập trung đơn vị lại, công bố: Thuyên chuyển 20 người, đều là những người thấp bé, chuyển sang thanh niên xung phong, nhập với một số người của Thanh Chương (Hà Tĩnh), tổng số khoảng 175 người.

- Lúc bị điều chuyển bác có buồn không ạ? - Không buồn, vì tổ chức phân công thì mình thực hiện thôi. Nhưng sau mới biết mình dại. Vì có người bạn đi cùng tôi cũng trong danh sách điều chuyển nhưng đã quyết tâm xin ở lại. Người bạn ấy bảo: Tao lên nói với lãnh đạo đơn vị: Lúc ở quê, tôi xin đi bộ đội, chứ có xin đi thanh niên xung phong đâu, nên phải cho tôi ở lại bộ đội. Các chỉ huy thấy cậu ấy kiên quyết quá nên lại chấp thuận. Sau khi biết chuyện đó, tôi tiếc mãi, vì thâm tâm mình muốn được đi bộ đội, được cầm súng đánh giặc.

Đầu tiên, chúng tôi làm đường 15 ở Tào Sơn (xã thuộc huyện Anh Sơn, Nghệ An). Sau đó, chúng tôi được điều đi lên hướng Điện Biên Phủ, lúc đó khoảng tháng 2/1954. Đi bộ, đường rừng. Lên đến Suối Rút (Mai Châu, Hòa Bình) thì dừng lại, đóng quân tại đó, canh gác một cây cầu. Tôi nhớ có lần bị ném bom, mảnh văng trúng cái thùng của tôi hay dùng khi đi làm đường, người không bị sao, nhưng thùng bị thủng. Song có anh bạn cùng đơn vị thì không may mắn như vậy, bị trúng bom, hy sinh. Có anh bạn cùng đơn vị thì bị sốt rét, hy sinh ngay lúc đang ăn cơm. Có anh khác cũng bị sốt rét, ngã lăn ngay bên mép đường đang làm… Nhưng tất cả chỉ chú tâm thực hiện nhiệm vụ, chứ cũng không thấy ai than vãn, sợ hãi chi cả. Hay vậy đấy. Thấy máy bay đến cũng không sợ.

Cựu đại tá không quân Pháp Jules Roy đã phải thừa nhận: "Mặc dù nhiều tấn bom đạn đã trút xuống các trục lộ giao thông nhưng tiếp tế của Việt Minh không bao giờ dứt. Không phải chỉ viện trợ của Trung Quốc giúp Việt Minh đã thắng tướng Navarre, mà chính là những chiếc xe đạp Peugeot thồ 200, 300 kg hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm nilon. Cái đã đánh bại tướng Navarre không phải bởi các phương tiện mà là sự thông minh và ý chí của đối phương".

Nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó là sửa đường cho xe chạy. Giặc ném bom hỏng cầu thì sửa cầu, hỏng đường thì sửa đường. Chúng tôi chia thành các tổ ba đến bốn người, đào hầm dưới mép rú (núi). Tôi hay được phân công làm nhiệm vụ ở trên cao, quan sát máy bay ném bom để đánh dấu điểm rơi trên bản đồ, quả nào nổ rồi thì thôi, quả nào chưa nổ thì đánh dấu vị trí để huy động anh em đến phá.

Đói thường xuyên. Cơm ăn với mắm khô. Tôi bị sốt rét nặng. Khi chiến dịch thắng lợi, cấp trên cho về, tôi không đi xe được, phải đưa xuống thuyền xuôi về. Đến Quảng Xương (Thanh Hóa) phải nằm lại hai tháng bồi dưỡng rồi mới về quê. Về đến quê tôi bị ốm sốt rét suốt một năm trời. Khỏi ốm, tôi được cử đi học sư phạm, dạy cấp một, cấp hai, cấp ba rồi về phòng giáo dục.

- Sau này, có khi nào bác kể lại những câu chuyện về những ngày tháng đó cho người thân hay học trò không ạ? - Thì cũng có kể cho người thân nghe thôi. Vì mình không trực tiếp tham gia ở Điện Biên, nên cũng nỏ có chi đáng để nói cả. Bản thân tôi cũng chưa từng tới Điện Biên. Lần ni tưởng được đi lên Điện Biên thì cũng quyết tâm đi một chuyến, nhưng lại cũng không đi được.

3 Chúng tôi đã có dịp tìm gặp và lắng nghe câu chuyện của nhiều chứng nhân lịch sử, như cụ Ngô Viết Gấn (sinh năm 1930, ở thôn Lê Xá, thị trấn Nông Cống, huyện Nông Cống, Thanh Hóa) từng tham gia lực lượng thanh niên xung phong, hoạt động ở Cò Nòi (Sơn La); cụ Trần Văn Túy (sinh năm 1931, hiện ở xã Nà Mường, huyện Mộc Châu, Sơn La), từng tham gia đội chuyên trách vận chuyển muối liên khu ba-bốn, từ Ninh Bình lên Hòa Bình; cụ Nguyễn Thị Nên (sinh năm 1930, hiện ở thôn Nhuyễn Phú Lâm, xã Tượng Lĩnh, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa) từng tham gia dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ... trong ký ức đã đôi phần mờ-tỏ của họ, Điện Biên Phủ luôn là một dấu mốc không thể nào quên, và luôn khiến khuôn mặt họ bừng sáng mỗi khi được nhắc đến.

Trên hành trình tìm lại những dấu tích lịch sử của con đường tiếp vận huyền thoại, chúng tôi có cơ hội bước trên những đoạn đường từng in dấu chân của hàng vạn chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến từ miền Thanh-Nghệ xẻ rừng vươn tới Điện Biên. Ngày nghỉ, đêm đi, giữa bóng tối mịt mù của núi cao, rừng thẳm, trong trái tim mỗi con người Việt Nam yêu nước ấy luôn rực sáng ngọn đèn lý tưởng, được thắp lên, khơi bùng bởi lời hiệu triệu của Bác Hồ, vang vọng như lời sông núi. Bởi vậy mà trên con đường gian nan, hiểm nguy ấy, dòng người như trẩy hội, trẩy hội để giành lại non sông.

Cụ Trần Văn Túy vẫn nhớ rõ nhiều kỷ niệm trong những tháng ngày tham gia tải hàng phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Cụ Trần Văn Túy vẫn nhớ rõ nhiều kỷ niệm trong những tháng ngày tham gia tải hàng phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Cụ Ngô Viết Gấn (bên phải) và cụ Nguyễn Thị Nên tại cuộc Gặp mặt, tri ân chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ (ngày 6/4).
Cụ Ngô Viết Gấn (bên phải) và cụ Nguyễn Thị Nên tại cuộc Gặp mặt, tri ân chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ (ngày 6/4).

“Kỷ niệm đáng nhớ nhất là vào cuối năm 1953, khi ấy bố (ông Hoàng Văn Hựu-PV) 46 tuổi, đang làm chủ tịch xã Trường Xuân. Thời điểm ấy, cả nước đang dốc sức chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, nhất là vùng Thanh- Nghệ được huy động sức người, sức của tối đa cho tiền tuyến. Bố được giao trọng trách trưởng đoàn dân công của xã với gần 200 người đi phục vụ hỏa tuyến Điện Biên Phủ trong ba tháng. Trước ngày đi, mẹ lo chuẩn bị nào là thuốc đau bụng, bông băng thuốc đỏ sát trùng, đơm lại cúc áo cho chắc chắn, vá lại áo quần cho lành lặn…Bố đi dân công hỏa tuyến ba tháng liền, chẳng có thư hay điện thoại như bây giờ, nên sự trông ngóng càng cảm thấy lâu như đi nhiều năm vậy.

Ngày bố từ mặt trận Điện Biên Phủ trở về, cả làng vui như Tết. Trông bố gầy, da đen sạm nhưng hoạt bát, nhanh nhẹn và phấn khởi vì vừa hoàn thành một nhiệm vụ lớn, cả đoàn không ai bị thương, chỉ bị sốt rét rừng hành hạ khiến nhiều người xanh xao, vàng vọt như tàu lá…. Một chuyến đi thấm trải bao gian khổ, đói khát, thiếu ngủ vì suốt đêm phải trèo đèo, lội suối, nhiều hôm ngủ ngoài rừng bị vắt hút máu no tròn lăn cả ra dưới cỏ cũng không biết. Tỉnh Thanh Hóa được nhà nước khen ngợi vì đã huy động được nhiều dân công ra tiền tuyến nhất, để tải đạn, tải lương thực thực phẩm ra tiền tuyến giúp bộ đội đánh thắng quân thù. Cấp trên còn khen tỉnh Thanh Hóa có nhiều sáng kiến, sử dụng xe đạp thồ năng suất rất cao. Anh Thanh, con nuôi của bố mẹ còn hỏi bố có trông thấy người dân tộc ở Điện Biên không? Bố bảo: Đồng bào dân tộc giúp đỡ dân công và bộ đội nhiều lắm. Họ hái rau rừng cho dân công nấu canh. Họ còn chặt cây làm lán tạm, che mưa nắng cho dân công nghỉ.”- trích tác phẩm ký Mùa xuân của mẹ của tác giả Hoàng Thị Phương Lan (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2017).

(Còn nữa)

Kỳ 2: Những "bất ngờ lớn" của lịch sử

Kỳ 3: Những thước phim đang mờ dần

Có thể bạn quan tâm

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Làng Nubian trên đảo Elephantine.

Ngôi làng cổ huyền bí giữa dòng sông Nile

Nằm ở phía nam Ai Cập, cách thủ đô Cairo khoảng 800 km, thành phố Aswan bên bờ sông Nile là cửa ngõ của Ai Cập xuống phía nam châu Phi. Đây là nơi sinh sống của người Nubian, một nhóm bộ tộc di cư, đến từ miền bắc Sudan. Điều đó giải thích tại sao họ có tông màu da sẫm hơn người Ai Cập.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu, sau hai lần chuyển địa điểm.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại (★)

Nhiều tài liệu viết về Điện Biên Phủ của tác giả nước ngoài đều khẳng định rằng: Công tác bảo đảm hậu cần là một mặt trận hết sức nóng bỏng và quyết liệt với cả hai bên, bởi nó là cầu nối giữa hậu phương với tiền tuyến.
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".
Với sự cần cù, người dân đã khiến đá trổ xanh. Ảnh: Giang Toan

Khúc tráng ca xứ đá

Đã nhiều lần đến "xứ đá" Hà Giang, song mỗi lần trở lại trong tôi luôn ngập đầy cảm xúc và sự nể phục sức sống mãnh liệt của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nơi đây, đá giăng tứ bề, đá thành rừng thử thách bước chân con người. Cuộc sống vất vả đủ đường nhưng người dân vẫn vươn lên, bám bản, khiến đá nở hoa.
Tác giả bên Bia tưởng niệm Di tích cuộc võ trang vượt ngục ngày 12/12/1952.

Kỳ IV: Ngút trời linh khí (Tiếp theo và hết)

Nơi này là vùng đất thiêng. Mỗi hòn đá cành cây, mỗi đợt sóng dâng trào biển khơi hay sẫm mầu núi biếc Côn Đảo đều có thể kể một câu chuyện về những thời, những người đã qua. Từng tấc đất trên đảo nhỏ giữa trùng khơi đều lưu những dấu tích của lòng uất hận và ý chí ngoan cường của những người Việt vì đại nghĩa Tổ quốc mà có thể hiến dâng cả thân xác vô cùng quý giá của mình.
Nhà Công quán Côn Đảo, nơi nhà soạn nhạc Charles Camille Saint Saens viết chương cuối của vở nhạc kịch "Hoàng hậu Fredegonde".

Kỳ III: Âm nhạc và ngục tù

"Hoàng hậu Fredegonde" là một vở nhạc kịch bất hủ của nhà soạn nhạc thiên tài người Pháp Charles Camille Saint Saens (1835-1921). Ông là một nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn. Tên tuổi của ông được xếp vào những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu theo người đương thời đánh giá và ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp quốc. Vở nhạc kịch và nhà soạn nhạc của quốc gia xa xôi ấy thì có liên quan gì đến Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian" giữa trùng khơi Việt Nam?
Chị Trang (bên phải) và chị Xiêm nỗ lực làm tranh cuốn giấy, vừa để kiếm thêm tiền trang trải chi phí, vừa để quên đi phần nào bệnh tật.

Thổi âm thầm những cơn gió mát

Mùa nắng nóng, có lúc cả bầu trời như cái chảo lửa khổng lồ khiến ngay cả những tán cây cũng teo tóp. Thế nhưng vì mưu sinh, không ít người lao động nghèo vẫn phải oằn mình ngoài đường phố Hà Nội, nhiều bệnh nhân chạy thận trú mình trong những căn phòng trọ vài mét vuông. Trong gian khó vẫn luôn có những bàn tay thiện nguyện trao yêu thương, cách con người đối đãi với nhau như cơn gió mát lành tiếp sức cho mỗi phận người.
Du khách tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng.

Về Mường Phăng nhớ ghé Che Căn

Cái tên Mường Phăng, tỉnh Điện Biên đã đi vào lịch sử và suy nghĩ của nhiều người khi địa danh này là nơi đặt Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Vậy nhưng, nếu đến Mường Phăng thì sẽ biết đến Che Căn. Hiện nay, Mường Phăng nỗ lực biến Che Căn trở thành địa điểm du lịch trọng điểm với lợi thế riêng có là Khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo tại nơi này…
Bé Kiều Oanh và bạn xem phim hoạt hình tại phòng trọ.

Mang yêu thương nâng đỡ yêu thương

Một căn nhà trọ đặc biệt vừa khánh thành tại chợ Tân Phú, phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). "Đặc biệt" vì đây là "nhà trọ 0 đồng" dành cho các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.

Từ những cuộc trao truyền nhạc cụ dân tộc Mạ

Đồng bào dân tộc Mạ có hệ thống các loại nhạc cụ hết sức độc đáo, bao gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi; trong đó có một số nhạc cụ chính như: đàn đá, cồng, chiêng, trống, khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ, kèn môi, khèn sừng trâu, đàn ống tre… Ngoài ra, còn có một số nhạc cụ khác được chế tác từ chất liệu thiên nhiên theo sự sáng tạo ngẫu hứng của một số nghệ nhân.
Nhà dài, kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Ê Đê.

"Buôn trong phố" đã hồi sinh

Không gian đô thị hết sức đặc thù, với những buôn làng của cộng đồng người Ê Đê, được kiến tạo nên từ hàng trăm năm qua, nhưng "cơn lốc" đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã nhanh chóng đẩy những không gian văn hóa đặc biệt đó của TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lùi xa, hoặc biến dạng một cách đáng kinh ngạc.

Già làng - nghệ nhân chỉnh chiêng người dân tộc Mạ.

Kỳ II : Trống cái giữa dàn chiêng

Tôi hỏi: “Thời bây giờ, vai trò của già làng còn thật sự quan trọng nữa không?”. Ông K’Điệp, một trí thức người Cơ Ho nói rằng: “Già làng nói - dân làng nghe; già làng hô - dân làng hưởng ứng; già làng làm - dân làng làm theo. Có nghĩa là vai trò của già làng vẫn rất quan trọng, nhất là trong việc hỗ trợ cấp ủy, chính quyền vận động quần chúng…”.