Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.
Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Thực hiện yêu cầu cách mạng sau dấu mốc lịch sử 30/4/1975, lực lượng thanh niên xung phong-thanh niên xung kích chuyển sang nhiệm vụ mới: khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng phát triển kinh tế. Thành phố Huế đã thành lập hai trung đoàn thanh niên xung kích với công tác tiền trạm, mở đường, khai hoang, dựng nhà để đón hàng ngàn hộ đồng bào Huế đến những vùng đất phía nam lập nghiệp.

★★★

Đó là những ngày mùa đông năm 1977. Sau khi xây dựng xong khu kinh tế mới Buôn Hồ (Đắk Lắk), anh Nguyễn Thái Long, Trung tá-Chính trị viên Thành đội, Thường vụ thành ủy Thành phố Huế được lệnh cùng các anh Nguyễn Cửu Sử, Nguyễn Văn Hữu, Trịnh Hùng Cường và một nhóm thanh niên xung kích lên đường vào Lâm Đồng khảo sát. Ngày 29/11/1977, mở tấm bản đồ tỷ lệ 1/25.000, anh Tám Bích, Trưởng ban kinh tế mới Lâm Đồng đã khoanh một vùng rộng lớn khoảng 40 cây số vuông, và nói: “Khu vực của các đồng chí đến khai hoang, trước đây là vùng 3 (một địa danh trong kháng chiến chống Mỹ), thuộc căn cứ kháng chiến Khu VI, mảnh đất này có bề dày truyền thống, thấm máu nhiều đồng chí, đồng bào... Ấm no là do bàn tay, khối óc của các đồng chí và đồng bào xứ Huế!”. Ngay sáng hôm sau, với chiếc la bàn trong tay, anh em cắt đường về vùng đất lạ mà anh Tám Bích đã khoanh tròn trên bản đồ hôm trước. Lần theo dòng suối Đạ Lây, đi sâu vào các triền núi, đoàn khảo sát gặp những vồng khoai nằm lút giữa một vùng dày đặc cỏ tranh và tre gai nhưng vẫn còn cho từng dây củ lớn; những gốc sắn già nua thân to như cây gỗ, những căn hầm đã sụt lở; những chiếc bi-đông đựng nước, dao rựa, nồi niêu đã gỉ sét. Đó là chứng tích nói lên tinh thần bất khuất, kiên cường của một vùng căn cứ kháng chiến oai hùng…

Anh Đỗ Đức Đủ, Trưởng ban liên lạc thanh niên xung kích thành phố Huế tại Lâm Đồng, kể lại: Ngày 17/12/1977, hai trung đoàn với 1.800 chiến sĩ bắt đầu lên đường sau lễ xuất quân tại điện Thái Hòa trong Đại Nội Huế. Vào đến nơi, vừa đặt ba-lô là anh chị em lao đi phát rừng, quy hoạch khu dân cư và ruộng đất ngay. Ưu tiên số một cho thời vụ sản xuất, nhà chưa có thì dựng tạm lán. Từ sáng tinh mơ đến trời tối mịt mọi người đều ở ngoài rừng. Nhiều đại đội còn huy động lực lượng phát rẫy dưới ánh trăng đêm. Một số nữ thanh niên ngày mới đến nghe tiếng vượn hú, hổ gầm còn ôm nhau run bắn lên mà khóc, rồi cũng quen dần, cũng đốn cây, phát rẫy, cắt tranh, dựng nhà như nam giới. Anh Đủ trầm ngâm: “Những ngày cuối đông đó mưa rừng sầm sập không ngớt. Trong những lán trại che tạm, anh chị em ướt như chuột lột. Đêm tối âm u, nhiều tiếng khóc sụt sùi của các cô gái trẻ hòa trong tiếng mưa và tiếng hát của những chàng trai vống lên vang động cả một khu rừng nguyên sinh. Những chàng trai cô gái thị thành đang học hành dở dang, có người chưa một lần cầm cây dao, cây rựa; trèo đèo lội suối, sên vắt cắn máu đỏ nhuộm tay chân, muỗi bu như trấu, nước độc, rắn độc, đói ăn, sốt rét, ghẻ lở đầy người. Sức khỏe mỗi ngày lại bị bào mòn, tóc con gái rụng từng nắm trôi theo dòng suối. Nhiều người đã ngã xuống khi đang cầm cuốc cầm dao như anh Võ Yên Thế, chị Lê Cảnh Thị Dạ Hương…”.

trang-12-2.jpg
Tên dốc Mạ Ơi nhắc nhở về một thời mở đất.

Sau hơn một năm, hơn 500 ha rừng già, cỏ tranh, cỏ ống đã được đoàn thanh niên xung kích phát quang, dọn sạch để đưa vào trồng tỉa; việc mở đường, lập làng tạm ổn. Sau Tết Mậu Ngọ-1978, đoàn di dân đầu tiên với hơn 100 hộ gia đình, 700 nhân khẩu gồng gánh lên đường. Khi dân đến, chỉ có những cái lán dựng vội chỉ đủ tránh mưa. Giường chõng, bàn tủ, quang gánh, nồi niêu, cơm gạo và cả bàn thờ đều chất thành từng đống ngoài trời ướt át. Tiếng người già ho hắng, tiếng trẻ khóc, tiếng chó sủa, gà kêu sốt ruột, ầm ĩ cả một góc rừng. Ban chỉ huy xuống ăn ngày ở đêm động viên đồng bào. Anh chị em thanh niên thì người chặt gỗ, kẻ cắt tranh, xúm nhau dựng cho bà con những chiếc lán kiên cố. Chỉ vài ngày sau, những cái lán một mái được dựng lên tạm làm yên lòng mọi người. Rồi chính từ nền những chiếc lán ban đầu ấy, chín tháng sau, những căn nhà đã mọc lên và mỗi hộ một mảnh vườn vuông vức 1.000m2 đã bắt đầu đơm hoa, kết trái. Từ đợt đầu ấy, chừng hơn một năm sau, đã có 3.000 hộ đến lập cư trên đất vùng kinh tế mới Hương Lâm. Làng xóm dần khang trang. Tết Kỷ Mùi-1979, vườn nhà nào cũng rạo rực một luống hoa cúc. Mầu vàng của loài hoa thân thuộc như một sự kết nối thiêng liêng của người dân xứ Huế đi xây dựng vùng kinh tế mới với quê nhà cắt rốn chôn nhau bên dòng Hương Giang. Cùng với các loài hoa, bà con còn mang theo cả những bụi chuối, cây mít, giàn bầu, cây ớt chỉ thiên từ cố xứ vào…

★★★

Ngày nắng đẹp, tôi thả bộ qua những con đường dẫn vào những lối xóm Đạ Lây. Cái phong vị làng quê của người Huế đi xa làm cho khách ghé thăm thấy lâng lâng cảm xúc, muốn được hòa cảm cùng những người dân đã an cư bền vững trên mảnh đất Tây Nguyên. Người xứ Huế đi đâu cũng chọn mặt đất tốt cùng bàn tay lao động chuyên cần tô lên những mảnh vườn hoa trái sum suê. Ở xứ này, nhiều lối vào nhà dân không kín cổng cao tường mà để phóng khoáng không gian với những hàng chè tàu cắt tỉa đối xứng. Những cặp cây mai hai bên lối cửa nuôi dưỡng nhiều năm đã thành mai cổ thụ, dù xa Tết đã lâu mà những nụ vàng tươi rực rỡ vẫn bền. Mầu hoàng mai lấy giống từ Huế hòa cùng mầu vàng hoa cúc tạo nên một không gian được phối sắc quý phái. Đâu đó vườn ai, tôi thấy những cây thanh trà trĩu quả mà chắc là chủ nhân phải lấy giống từ ngoài quê vào.

Trong những nếp nhà vườn ấy vẫn giữ được nét kiến trúc thân quen, dù là quê kiểng nhưng vẫn phảng phất phong vị của xứ thần kinh. Nét gia phong rất đặc trưng của miền cố xứ vẫn được giữ vẹn. Người Huế, dù có đi đến góc biển chân trời thì cũng cứ mang theo phong tục tập quán, những lễ nghi tâm linh, sự ảnh hưởng lối sống từ thời chín Chúa mười ba Vua triều Nguyễn. Đi xa, người Huế giữ được nhiều tập tục cổ truyền hơn nhiều nhóm di dân khác; có tinh thần gắn kết gia tộc và tình yêu quê hương mãnh liệt, đôi lúc yêu đến mức bảo thủ.

Anh Nguyễn Minh Tánh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đạ Lây, cung cấp thông tin, trải qua 47 năm lập nghiệp quê mới, hiện nay xã Đạ Lây có tổng diện tích đất tự nhiên là 5.200 ha với chín thôn, tổng dân số là 6.196 nhân khẩu với 1.541 hộ. Kinh tế xã phát triển theo hướng đa ngành, nông nghiệp là nòng cốt. Những năm qua, Đạ Lây đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh tranh trên thị trường. Xã hiện là vùng cây ăn trái trọng điểm, với diện tích 549 ha gồm các cây chủ lực như sầu riêng, quýt, bưởi cùng với cây cao-su, dâu tằm, tầm vông, mía… Chăn nuôi cũng là một thế mạnh, người dân Đạ Lây có nhiều trang trại chăn nuôi tập trung, quy mô lớn; đàn trâu bò của xã hiện có 1.268 con, trên địa bàn xã có bốn trang trại nuôi heo với tổng đàn trên 72.000 con. Cùng với tổng diện tích gieo trồng hằng năm bình quân 3.213 ha là diện tích rừng kinh tế 1.584 ha. Thu nhập bình quân đầu người đạt 55 triệu đồng; giá trị thu hoạch trên một ha canh tác đạt khoảng 95 triệu đồng. Toàn xã hiện có trên 200 hộ sản xuất, kinh doanh, thương mại-dịch vụ cùng với nhiều quán ăn mang đậm bản sắc văn hóa ẩm thực Huế như cơm hến, bánh lọc, chả giò, bún bò đã tạo được sức hấp dẫn với khách miền xa ghé lại. Hiện xã đã có những sản phẩm được công nhận thương hiệu như bưởi da xanh, hạt điều rang muối, đặc biệt là chả giò và bánh lọc truyền thống…

★★★

Rời Đạ Lây, quê mới của những người con xứ Huế, qua đỉnh dốc Mạ Ơi, tôi dừng xe mở kính ngoái đầu nhìn lại. Đâu đó bên những cánh rừng, những vườn cây trái sum suê mát mắt hay ruộng lúa miên man là những giọng nói tiếng cười “rất Huế” xôn xao trong buổi chiều nắng hãy còn vương. Gần trọn nửa thế kỷ mang Huế đi xa, những người con Cố đô trên miền quê mới đã lập nên kỳ tích. Kỳ tích ấy không có gì to tát mà thật là đơn sơ, giản dị. Với tình yêu với hai miền quê, họ đã đổ mồ hôi, nước mắt để kiến tạo nên một vùng cư dân trù phú và ấm áp nghĩa tình giữa xứ sở đại ngàn từng là rừng thiêng nước độc ngày nào.

Có thể bạn quan tâm

GS Hồ Ngọc Đại và nhà giáo Nguyễn Trung Chính (bên phải) - hai người thầy tóc bạc vẫn hết lòng hướng về trẻ thơ.

Những người thầy tóc bạc

Mới đây, Nhân Dân cuối tuần nhận được một lá thư dài viết tay với nét bút gọn, khẳng khái của một nhà giáo ở thành phố Hải Phòng.

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Làng Nubian trên đảo Elephantine.

Ngôi làng cổ huyền bí giữa dòng sông Nile

Nằm ở phía nam Ai Cập, cách thủ đô Cairo khoảng 800 km, thành phố Aswan bên bờ sông Nile là cửa ngõ của Ai Cập xuống phía nam châu Phi. Đây là nơi sinh sống của người Nubian, một nhóm bộ tộc di cư, đến từ miền bắc Sudan. Điều đó giải thích tại sao họ có tông màu da sẫm hơn người Ai Cập.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu, sau hai lần chuyển địa điểm.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại (★)

Nhiều tài liệu viết về Điện Biên Phủ của tác giả nước ngoài đều khẳng định rằng: Công tác bảo đảm hậu cần là một mặt trận hết sức nóng bỏng và quyết liệt với cả hai bên, bởi nó là cầu nối giữa hậu phương với tiền tuyến.
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".
Với sự cần cù, người dân đã khiến đá trổ xanh. Ảnh: Giang Toan

Khúc tráng ca xứ đá

Đã nhiều lần đến "xứ đá" Hà Giang, song mỗi lần trở lại trong tôi luôn ngập đầy cảm xúc và sự nể phục sức sống mãnh liệt của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nơi đây, đá giăng tứ bề, đá thành rừng thử thách bước chân con người. Cuộc sống vất vả đủ đường nhưng người dân vẫn vươn lên, bám bản, khiến đá nở hoa.
Tác giả bên Bia tưởng niệm Di tích cuộc võ trang vượt ngục ngày 12/12/1952.

Kỳ IV: Ngút trời linh khí (Tiếp theo và hết)

Nơi này là vùng đất thiêng. Mỗi hòn đá cành cây, mỗi đợt sóng dâng trào biển khơi hay sẫm mầu núi biếc Côn Đảo đều có thể kể một câu chuyện về những thời, những người đã qua. Từng tấc đất trên đảo nhỏ giữa trùng khơi đều lưu những dấu tích của lòng uất hận và ý chí ngoan cường của những người Việt vì đại nghĩa Tổ quốc mà có thể hiến dâng cả thân xác vô cùng quý giá của mình.
Nhà Công quán Côn Đảo, nơi nhà soạn nhạc Charles Camille Saint Saens viết chương cuối của vở nhạc kịch "Hoàng hậu Fredegonde".

Kỳ III: Âm nhạc và ngục tù

"Hoàng hậu Fredegonde" là một vở nhạc kịch bất hủ của nhà soạn nhạc thiên tài người Pháp Charles Camille Saint Saens (1835-1921). Ông là một nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn. Tên tuổi của ông được xếp vào những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu theo người đương thời đánh giá và ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp quốc. Vở nhạc kịch và nhà soạn nhạc của quốc gia xa xôi ấy thì có liên quan gì đến Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian" giữa trùng khơi Việt Nam?
Chị Trang (bên phải) và chị Xiêm nỗ lực làm tranh cuốn giấy, vừa để kiếm thêm tiền trang trải chi phí, vừa để quên đi phần nào bệnh tật.

Thổi âm thầm những cơn gió mát

Mùa nắng nóng, có lúc cả bầu trời như cái chảo lửa khổng lồ khiến ngay cả những tán cây cũng teo tóp. Thế nhưng vì mưu sinh, không ít người lao động nghèo vẫn phải oằn mình ngoài đường phố Hà Nội, nhiều bệnh nhân chạy thận trú mình trong những căn phòng trọ vài mét vuông. Trong gian khó vẫn luôn có những bàn tay thiện nguyện trao yêu thương, cách con người đối đãi với nhau như cơn gió mát lành tiếp sức cho mỗi phận người.
Du khách tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng.

Về Mường Phăng nhớ ghé Che Căn

Cái tên Mường Phăng, tỉnh Điện Biên đã đi vào lịch sử và suy nghĩ của nhiều người khi địa danh này là nơi đặt Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Vậy nhưng, nếu đến Mường Phăng thì sẽ biết đến Che Căn. Hiện nay, Mường Phăng nỗ lực biến Che Căn trở thành địa điểm du lịch trọng điểm với lợi thế riêng có là Khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo tại nơi này…
Bé Kiều Oanh và bạn xem phim hoạt hình tại phòng trọ.

Mang yêu thương nâng đỡ yêu thương

Một căn nhà trọ đặc biệt vừa khánh thành tại chợ Tân Phú, phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). "Đặc biệt" vì đây là "nhà trọ 0 đồng" dành cho các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.

Từ những cuộc trao truyền nhạc cụ dân tộc Mạ

Đồng bào dân tộc Mạ có hệ thống các loại nhạc cụ hết sức độc đáo, bao gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi; trong đó có một số nhạc cụ chính như: đàn đá, cồng, chiêng, trống, khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ, kèn môi, khèn sừng trâu, đàn ống tre… Ngoài ra, còn có một số nhạc cụ khác được chế tác từ chất liệu thiên nhiên theo sự sáng tạo ngẫu hứng của một số nghệ nhân.
Nhà dài, kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Ê Đê.

"Buôn trong phố" đã hồi sinh

Không gian đô thị hết sức đặc thù, với những buôn làng của cộng đồng người Ê Đê, được kiến tạo nên từ hàng trăm năm qua, nhưng "cơn lốc" đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã nhanh chóng đẩy những không gian văn hóa đặc biệt đó của TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lùi xa, hoặc biến dạng một cách đáng kinh ngạc.