Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Già làng K’set Tambou nói với tôi rằng, tên gọi của buôn là tên của bà cụ tổ Ka Ming, người có công tìm ra vùng đất. Từ hàng trăm năm trước, tổ tiên đã chọn cho cháu con, cho những người đồng tộc Cơ Ho của mình một mảnh đất lập cư mà theo cách nói của người Kinh là hợp thế “địa linh”. Hưởng lộc Yàng, bà dẫn cháu con đến đây, dạy họ trồng cây lúa nước, thuần phục muông thú và xe sợi cây rừng để dệt thổ cẩm.

Bà cũng truyền cho cháu con những làn điệu dân ca, dân vũ để giúp họ thắp lên ngọn lửa ấm áp trong những đêm trường lạnh lẽo, tăm tối. Người Cơ Ho ở buôn Ka Ming vẫn chưa quên những câu chuyện xưa. Những câu chuyện người già kể lại hết đêm này qua ngày khác không dứt bên những bếp lửa cây rừng là ký ức về những đắng cay, tủi nhục, lạc hậu và nghèo đói.

Sự giàu có của những ông chủ Tây được đổi bằng máu và mồ hôi của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.

Ký ức của người Cơ Ho ở buôn Ka Ming về dĩ vãng hơn một thế kỷ qua cũng là nỗi buồn đau chung của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, sau khi xác lập địa vị cai trị và bắt đầu vơ vét tài nguyên ở vùng đồng bằng, chúng xua quân lên vùng núi cao để khai thác những nguồn lợi vô tận. Cao nguyên Djirinh (Di Linh ngày nay) với những cánh rừng già nguyên sinh giàu có, những mỏ khoáng sản lộ thiên và thổ nhưỡng bazan màu mỡ là một trong những vùng đất mà bọn thực dân ham muốn. Chúng mộ phu khai phá và lập nên những đồn điền trồng cây công nghiệp trù phú, những công xưởng chế biến lâm sản và những hầm mỏ quy mô lớn.

Sự giàu có của những ông chủ Tây được đổi bằng máu và mồ hôi của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đời cha cho chí đời con, họ chỉ biết suốt tháng quanh năm khố đụp lưng trần đi phu, đi xâu dưới làn roi da và súng đạn của quân xâm lược. Giặc Pháp chưa qua, giặc Mỹ đã tới. Máu lại đổ xuống thấm đất bazan cùng với mồ hôi và nước mắt. Trong cảnh tăm tối, đói nghèo, lầm than, người dân tộc thiểu số Tây Nguyên kề vai sát cánh với đồng bào của mình trên mọi miền quê Việt Nam cùng vùng lên đánh đuổi quân xâm lược, giành lại giang sơn, Tổ quốc. Người Kơ Ho ở buôn Ka Ming cũng như đồng bào ở khắp Tây Nguyên chỉ thật sự đổi đời kể từ khi nước nhà thống nhất. Từ mùa xuân 1975 lịch sử, họ đã thật sự làm chủ làng buôn, làm chủ chính cuộc đời mình trên mảnh đất mà bà cụ tổ Ka Ming thuở trước đã lựa chọn cho con cháu lập cư…

*

Trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, Ka Ming là một trong những buôn dân tộc thiểu số đi đầu ở Tây Nguyên trong đổi thay cung cách làm ăn. Cùng với một số hợp tác xã của đồng bào người Kinh, hợp tác xã Ka Ming nổi tiếng một thời khi ban quản lý mà người đứng đầu là chủ nhiệm K’sét Tambou đã mạnh dạn lãnh đạo bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phá thế độc canh cây lúa sang trồng cà-phê thương phẩm.

Từ tập quán canh tác lạc hậu của nền kinh tế tự cấp, tự túc mà theo cách nói của đồng bào là “mạnh lúa lúa lên, mạnh cỏ cỏ lên”, người Cơ Ho nơi này đã chuyển một bước cơ bản trong nhận thức khi làm quen sớm với nền sản xuất hàng hóa. Nếu ngày xưa, cây lúa chỉ giải quyết cái ăn thì cà-phê đã giúp họ làm giàu. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ trước, cây cà-phê đã bám rễ trong những khu vườn của buôn Ka Ming, đồng bào đã làm quen rất nhanh với loại cây công nghiệp cho hiệu quả kinh tế cao nhưng lại nổi tiếng khó tính này. Nhưng phải đợi đến hơn 10 năm sau đó, khi giá cà-phê trên thị trường tăng cao đột biến thì cây cà-phê đã chiếm địa vị thật sự quan trọng ở vùng đất này. Chỉ một hoặc hai vụ cà-phê, biệt thự đã mọc lên san sát, những âm thanh điện tử và tiếng xe hơi, xe máy rộn ràng buôn làng. Ka Ming đã nhanh chóng khá lên từ những năm đó và cho đến hôm nay, buôn làng này vẫn giữ được “phong độ” của một vùng cư dân biết tính toán làm ăn và biết cách làm giàu, một sự giàu có mang tính bền vững.

Khu phố Ka Ming có tổng số hơn 300 hộ với hơn 2000 nhân khẩu. Chừng đó cư dân tập trung sinh sống trên một quả đồi có diện tích 636,4 ha và canh tác thuần nông với 273 ha cà-phê, 148 ha lúa nước, chăm sóc bảo vệ 191 ha rừng và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Quả đồi “địa linh” này là nhân chứng của những bước thăng trầm của cư dân nơi đây và hôm nay đang chứng kiến những bước đổi thay kỳ diệu của cuộc sống dưới ánh sáng của chế độ, của Đảng. Ở buôn Ka Ming không có hộ nào đói, hộ thật sự nghèo cũng đã hết rồi, còn hộ giàu thì mỗi ngày một tăng. Ở khu phố Cơ Ho này, niên vụ cà phê 2024-2025, số hộ có thu nhập vài tỷ đồng lên tới con số hàng chục…

*

Chuyện làm ăn, chuyện cuộc sống phát triển theo chiều hướng đi lên thật đáng ghi nhận. Tuy nhiên, điều khiến chúng tôi thật sự ngạc nhiên chính là việc quan tâm đến sự học của đồng bào ở buôn Ka Ming. Thành công lớn nhất ở buôn làng là bà con luôn giữ được tinh thần hiếu học và quan tâm đến tương lai của con cháu qua việc đầu tư phát triển trí tuệ. Anh K’Lào, Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện Di Linh, con rể của buôn làng này, nở nụ cười rất tươi: “Ka Ming là niềm tự hào của đồng bào Cơ Ho chúng tôi đấy. Hiếm có làng buôn nào mà sự học được đề cao như ở nơi đây.” Ở Trường Dân tộc Nội trú huyện Di Linh, chúng tôi gặp thầy giáo K’Brol, cũng là một người buôn Ka Ming; anh tốt nghiệp Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh ngành sử, ra trường năm 1997.

K’Brol nói, vào năm ấy cả buôn anh có 30% người theo học các trường chuyên nghiệp. “Học là cách duy nhất để thay đổi cuộc sống. Ở buôn làng tôi từ lâu đã có tâm lý ngầm thi đua chuyện học của các gia đình, con cái học giỏi thì cha mẹ và dòng họ tự hào. Bởi vậy, hồi đó bố mẹ tôi còn nghèo nhưng vẫn vay ngân hàng chính sách xã hội cho con cái học hành đến nơi đến chốn.”

Khi chúng tôi hỏi chuyện, nhiều người trong buôn tỏ ra rất kính phục gia đình ông K’Brèo. Sự kính phục của họ thật có lý, lão nông này đã nuôi dưỡng năm người con của mình khôn lớn trưởng thành, tất cả đều tốt nghiệp đại học, cao học. Những người con của ông K’Brèo đều là công chức nhà nước: một người làm cán bộ kiểm lâm huyện, một ở tòa án huyện, một là bác sĩ ở trung tâm y tế Di Linh, một là cán bộ ở Sở Dân tộc và Tôn giáo Lâm Đồng và cậu út cũng là bác sĩ.

Người ta còn kể về gia đình ông K’Sen có hai con tốt nghiệp đại học: anh K’Son sau khi học xong cử nhân kinh tế đã về công tác tại thành phố Đà Lạt, anh K’Sung là bác sĩ của trung tâm y tế huyện Đạ Tẻh. Nhà ông K’Broh cũng có hai người con cử nhân, một đang theo học ngành y và một là K’Brừl, đồng nghiệp của chúng tôi ở Báo Lâm Đồng. Người dân Ka Ming còn nói rất nhiều về anh cán bộ ngân hàng chính sách xã hội K’Brol và anh K’Brìm cũng là một cán bộ của ngân hàng người nghèo. Mọi người còn tấm tắc khen tấm gương bác sĩ K’Brưt con ông Moin Brìu từng tu nghiệp ở Thái Lan và Trung Quốc…

Như lời lý giải trên của thầy giáo K’Brol, quan tâm đầu tư cho sự học ở Ka Ming đã trở thành một lẽ tự nhiên mà người dân nào ở đây cũng tự ý thức như thế. Nó như một truyền thống mà nhiều năm qua, những người dân Cơ Ho nơi đây đã tự xây đắp. Nhà này nhìn sang nhà khác, người đi trước để gương lại cho người đi sau. Cả buôn làng đều tự hiểu rằng, chỉ có cái chữ, có tri thức khoa học mới dẫn dắt mọi người vượt qua lạc hậu, đói nghèo và vươn tới no ấm, văn minh.

Chính vì vậy, ở không ít vùng đồng bào dân tộc thiểu số khác, ngành giáo dục và chính quyền còn rất khổ công trong việc vận động đưa trẻ đến trường thì ở Ka Ming đồng bào coi việc cho con em đi học là quyền lợi và trách nhiệm. Già làng K’Sét Tambou thêm một lần khẳng định với chúng tôi: “Đồng bào Cơ Ho ở buôn Ka Ming càng ngày càng thêm no ấm, văn minh. Con cháu được Đảng và nhà nước chăm lo học hành tử tế và trọng dụng thành người có ích cho làng buôn, cho đất nước. Chúng tôi không còn mong gì hơn thế nữa!...”

Có thể bạn quan tâm

GS Hồ Ngọc Đại và nhà giáo Nguyễn Trung Chính (bên phải) - hai người thầy tóc bạc vẫn hết lòng hướng về trẻ thơ.

Những người thầy tóc bạc

Mới đây, Nhân Dân cuối tuần nhận được một lá thư dài viết tay với nét bút gọn, khẳng khái của một nhà giáo ở thành phố Hải Phòng.

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Làng Nubian trên đảo Elephantine.

Ngôi làng cổ huyền bí giữa dòng sông Nile

Nằm ở phía nam Ai Cập, cách thủ đô Cairo khoảng 800 km, thành phố Aswan bên bờ sông Nile là cửa ngõ của Ai Cập xuống phía nam châu Phi. Đây là nơi sinh sống của người Nubian, một nhóm bộ tộc di cư, đến từ miền bắc Sudan. Điều đó giải thích tại sao họ có tông màu da sẫm hơn người Ai Cập.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu, sau hai lần chuyển địa điểm.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại (★)

Nhiều tài liệu viết về Điện Biên Phủ của tác giả nước ngoài đều khẳng định rằng: Công tác bảo đảm hậu cần là một mặt trận hết sức nóng bỏng và quyết liệt với cả hai bên, bởi nó là cầu nối giữa hậu phương với tiền tuyến.
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".
Với sự cần cù, người dân đã khiến đá trổ xanh. Ảnh: Giang Toan

Khúc tráng ca xứ đá

Đã nhiều lần đến "xứ đá" Hà Giang, song mỗi lần trở lại trong tôi luôn ngập đầy cảm xúc và sự nể phục sức sống mãnh liệt của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nơi đây, đá giăng tứ bề, đá thành rừng thử thách bước chân con người. Cuộc sống vất vả đủ đường nhưng người dân vẫn vươn lên, bám bản, khiến đá nở hoa.
Tác giả bên Bia tưởng niệm Di tích cuộc võ trang vượt ngục ngày 12/12/1952.

Kỳ IV: Ngút trời linh khí (Tiếp theo và hết)

Nơi này là vùng đất thiêng. Mỗi hòn đá cành cây, mỗi đợt sóng dâng trào biển khơi hay sẫm mầu núi biếc Côn Đảo đều có thể kể một câu chuyện về những thời, những người đã qua. Từng tấc đất trên đảo nhỏ giữa trùng khơi đều lưu những dấu tích của lòng uất hận và ý chí ngoan cường của những người Việt vì đại nghĩa Tổ quốc mà có thể hiến dâng cả thân xác vô cùng quý giá của mình.
Nhà Công quán Côn Đảo, nơi nhà soạn nhạc Charles Camille Saint Saens viết chương cuối của vở nhạc kịch "Hoàng hậu Fredegonde".

Kỳ III: Âm nhạc và ngục tù

"Hoàng hậu Fredegonde" là một vở nhạc kịch bất hủ của nhà soạn nhạc thiên tài người Pháp Charles Camille Saint Saens (1835-1921). Ông là một nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn. Tên tuổi của ông được xếp vào những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu theo người đương thời đánh giá và ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp quốc. Vở nhạc kịch và nhà soạn nhạc của quốc gia xa xôi ấy thì có liên quan gì đến Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian" giữa trùng khơi Việt Nam?
Chị Trang (bên phải) và chị Xiêm nỗ lực làm tranh cuốn giấy, vừa để kiếm thêm tiền trang trải chi phí, vừa để quên đi phần nào bệnh tật.

Thổi âm thầm những cơn gió mát

Mùa nắng nóng, có lúc cả bầu trời như cái chảo lửa khổng lồ khiến ngay cả những tán cây cũng teo tóp. Thế nhưng vì mưu sinh, không ít người lao động nghèo vẫn phải oằn mình ngoài đường phố Hà Nội, nhiều bệnh nhân chạy thận trú mình trong những căn phòng trọ vài mét vuông. Trong gian khó vẫn luôn có những bàn tay thiện nguyện trao yêu thương, cách con người đối đãi với nhau như cơn gió mát lành tiếp sức cho mỗi phận người.
Du khách tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng.

Về Mường Phăng nhớ ghé Che Căn

Cái tên Mường Phăng, tỉnh Điện Biên đã đi vào lịch sử và suy nghĩ của nhiều người khi địa danh này là nơi đặt Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Vậy nhưng, nếu đến Mường Phăng thì sẽ biết đến Che Căn. Hiện nay, Mường Phăng nỗ lực biến Che Căn trở thành địa điểm du lịch trọng điểm với lợi thế riêng có là Khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo tại nơi này…
Bé Kiều Oanh và bạn xem phim hoạt hình tại phòng trọ.

Mang yêu thương nâng đỡ yêu thương

Một căn nhà trọ đặc biệt vừa khánh thành tại chợ Tân Phú, phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). "Đặc biệt" vì đây là "nhà trọ 0 đồng" dành cho các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.

Từ những cuộc trao truyền nhạc cụ dân tộc Mạ

Đồng bào dân tộc Mạ có hệ thống các loại nhạc cụ hết sức độc đáo, bao gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi; trong đó có một số nhạc cụ chính như: đàn đá, cồng, chiêng, trống, khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ, kèn môi, khèn sừng trâu, đàn ống tre… Ngoài ra, còn có một số nhạc cụ khác được chế tác từ chất liệu thiên nhiên theo sự sáng tạo ngẫu hứng của một số nghệ nhân.
Nhà dài, kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Ê Đê.

"Buôn trong phố" đã hồi sinh

Không gian đô thị hết sức đặc thù, với những buôn làng của cộng đồng người Ê Đê, được kiến tạo nên từ hàng trăm năm qua, nhưng "cơn lốc" đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã nhanh chóng đẩy những không gian văn hóa đặc biệt đó của TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lùi xa, hoặc biến dạng một cách đáng kinh ngạc.