NGƯỜI THIẾT KẾ NGÔI NHÀ CỦA BÁC (*)

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Như chúng tôi đã nói ở kỳ trước. Để thiết kế và triển khai thi công ngôi nhà sàn của Bác, cả cuộc đời làm kiến trúc sư, chưa bao giờ ông Nguyễn Văn Ninh gặp một bài toán khó giải như thế. Nhưng càng khó thì khi giải được niềm hạnh phúc càng lớn. Sau hai tháng thiết kế hoàn thành, chuyển sang giai đoạn thi công, việc chọn vật liệu gỗ và ngói lợp không khó. Thợ lành nghề chọn cả bên công binh lẫn thợ bên ngoài cũng không khó. Các công đoạn về mộc được tiến hành rất tốt, đúng yêu cầu thiết kế, kỹ thuật và mỹ thuật. Anh em được tuyển chọn làm công trình đặc biệt mang tính lịch sử này ai cũng ý thức sâu sắc được niềm vinh dự tự hào nên tinh thần trách nhiệm rất cao. Rồi cái khó là thi công vào thời điểm nào cho thích hợp vì hằng ngày Bác vẫn mải miết làm việc, nếu thi công công trình sẽ gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến công việc của Bác. Cuối cùng, một kế hoạch được vạch ra, là chờ Bác đi công tác dài ngày một chút sẽ tiến hành.

Ngày Bác lên đường công tác cũng là ngày vị kiến trúc sư cho khởi công công trình; ông đã chỉ đạo các kíp thợ làm việc với năng suất, chất lượng và tiến độ cao chưa từng thấy. Vì vậy, công trình đã hoàn thành trước khi Bác về nước ba ngày. Ông Ninh đã rất lo lắng và hồi hộp đón chờ ý kiến của Người. Thật may, ngắm ngôi nhà, Bác khen: “Ngôi nhà đẹp quá, thoáng mát”; rồi Bác ngừng nói với nét mặt suy tư. Ông Ninh vội thưa: “Thưa Bác! So với ý Bác dặn thì có tốn kém hơn thêm đôi chút thôi ạ!” Bác tươi cười rồi bảo: “Chú Ninh nói đúng. Nước ta còn nghèo, dân ta còn khổ, chưa đủ nhà để ở. Bác ở thế này là quá sang trọng!”.

“Bên cạnh những đóng góp xây dựng đội ngũ làm công tác kiến trúc, với kinh nghiệm và lòng say sưa với nghề nghiệp của mình, đồng chí Nguyễn Văn Ninh đã có nhiều tác phẩm, trong đó đáng ghi nhớ là nhà sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác đã giao cho đồng chí thiết kế nhà sàn đó. Đồng chí đã đem hết nhiệt tình của mình và đã thực hiện được ý muốn của Bác về nơi ăn, ở, nghỉ và làm việc của Bác. Bác đã được vừa ý với ngôi nhà kiến trúc cũng khiêm tốn, giản dị như cuộc sống của Bác lúc sinh thời. Ngày nay, nhà sàn đó trở thành địa chỉ thiêng liêng mà mọi người đều biết đến…” (Trích điếu văn của Thứ trưởng Xây dựng Lâm Quang Mỹ tại lễ tang kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, ngày 17/4/1975)

Ngôi nhà sàn của Bác nhỏ nhắn, hai tầng đặt theo hướng đông nam; cốt nhà làm bằng gỗ dổi, một loại gỗ thông dụng chứ không thuộc loại “tứ thiết” quý hiếm nhưng luôn thoảng mùi thơm, mái ngói bẻ góc ấm áp, giản dị; những bộ mành trúc đơn sơ. Tầng một ngôi nhà để thoáng với một bộ bàn ghế lớn, nơi Bác thường làm việc với Bộ Chính trị, gặp cán bộ các đầu ngành đến báo cáo công việc và là nơi Bác tiếp thân mật các đoàn khách trong nước và quốc tế. Tầng hai là nơi làm việc và nghỉ ngơi của Bác với hai căn phòng nhỏ, mỗi phòng rộng khoảng 10m2 đủ để kê một chiếc giường, một bàn, một ghế và giá sách. Những vật dụng thường ngày của Bác vô cùng giản dị như chăn đơn, chiếu cói, chiếc máy đánh chữ cũ và cây quạt kết bằng lá cọ. Phía trước ngôi nhà là một ao cá rộng 3.320m2, sâu 3m, nơi Bác vẫn thường ra nghỉ ngơi, thư giãn, cho cá ăn. Quanh ngôi nhà của Bác được trồng rất nhiều hoa, cây ăn quả và cây bóng mát như nhài, ngâu, dạ lan, mẫu đơn, hàng râm bụt, phượng vĩ, cam, bưởi, chuối, dừa, vú sữa, xoài, trường xanh, bụt mọc… gợi nhớ không gian làng quê Việt, gợi nhớ quê hương làng Sen nơi Bác sinh ra và đã sống những ngày thơ ấu. Đối lập với các công trình kiến trúc bề thế trong Phủ Toàn quyền cũ, Bác của chúng ta đã chọn ở trong ngôi nhà nhỏ bé, khiêm nhường, một khu vườn đơn sơ, mộc mạc khi đã là nguyên thủ quốc gia. Đó là biểu tượng sinh động cho phong cách sống của một con người thanh tao, khiêm tốn, đạt đến độ mẫu mực và có sức lay cảm đến tất cả những ai chứng kiến.

Ngày 18 tháng 5 năm 1958, trước sinh nhật một ngày, Bác chính thức dọn đến ở và làm việc tại ngôi nhà sàn. Hôm đó, Bác mời mọi người dự một bữa liên hoan nhẹ để “mừng nhà mới”. Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã đến muộn vài phút, Bác vẫy tay ông đến chụp ảnh cùng Người và các đồng chí có mặt, Bác nói: “Phô-tô chờ một chút, “chú Kiến” nhanh lên vào giữa, ngồi trước Bác đây này. Được rồi, chụp đi…” Ông Ninh kể là bản thân thấy ái ngại khi đến muộn. Bác gọi tên ông là “chú Kiến” vừa ngụ ý ông là kiến trúc sư lại vừa phê bình vui là ông chậm như kiến bò. “Tại cái xích xe đạp rão của chú đấy mà”, Bác đã cười và nói như thế để giải tỏa giúp ông…

Ngồi tiếp chuyện tôi trong ngôi nhà ngày xưa bố mình từng sống, ông Nguyễn Thanh Bích, con trai trưởng của kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, từng là một nhà ngoại giao công tác tại Ban Đối ngoại Trung ương, không giấu cảm xúc: “Cuộc đời bố tôi đã để lại những công trình vô cùng giá trị, cụ cũng dành những di sản tinh thần quý báu cho gia đình, con cháu. Chúng tôi luôn tự hào về người cha yêu quý của mình!”.

Còn chị Nguyễn Thị Thu Thủy, cháu nội của vị kiến trúc sư đã kể cho tôi rất nhiều câu chuyện trong suốt 29 năm chị trực tiếp công tác tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. “Thật may mắn cho tôi là được làm việc nhiều năm tại đây với công tác bảo quản, giữ gìn lâu dài, nguyên vẹn các di tích bất động sản, tài liệu hiện vật và môi trường cảnh quan của khu di tích. Nơi này thật giản dị, giản dị như chính cuộc đời của Người”. Chị Thủy xúc động nói thêm: “Mỗi ngày làm việc của tôi còn được chiêm ngắm công trình mang ý nghĩa đặc biệt, in dấu ấn sâu sắc trong sự nghiệp sáng tạo kiến trúc của ông nội mình. Tôi vô cùng tự hào và trân trọng!…” .

* * *

Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh sinh ngày 3/2/1908 tại phố Đông Kinh (thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn). Năm 12 tuổi, học xong tiểu học, cậu bé Ninh rời quê hương xuống miền xuôi học tiếp bậc trung học. Nguyễn Văn Ninh là người học giỏi, ông đã đỗ đầu khóa trong số tám sinh viên đầu tiên của Khoa Kiến trúc của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (khóa 1926-1931). Năm 1932, ông vào Huế và được bổ nhiệm làm kiến trúc sư cung đình. Trong 10 năm làm việc tại triều đình Huế, ông đã tham gia thiết kế, tu bổ và xây dựng nội ngoại thất các công trình trong hoàng thành, các lăng tẩm, cung điện, biệt thự; trong đó, ông đã tham gia vào việc xây dựng Dinh Bảo Đại (Dinh 3) tại Đà Lạt. Là một trí thức yêu nước, năm 1945, ông tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt và được bầu làm Ủy viên Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Lâm Viên (tỉnh Lâm Đồng ngày nay). Cuộc kháng chiến nổ ra, ông trở về công tác tại xứ Lạng quê hương và sau đó là Chiến khu Việt Bắc. Kháng chiến thành công, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh trở về Hà Nội và được giao nhiệm vụ thiết kế lễ đài Ba Đình để đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Chính phủ về Thủ đô (ngày 1/1/1955) và đài Liệt sĩ Ba Đình… Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh mất ngày 15/4/1975, thọ 67 tuổi. Lúc sinh thời, ông được hai lần Bác Hồ tặng Huy hiệu của Người. Cụm công trình kiến trúc do Nguyễn Văn Ninh sáng tác gồm Lễ đài Ba Đình (1955 và 1960) và Nhà sàn Bác Hồ đã được Chủ tịch Nước tặng Giải thưởng Nhà nước đợt I năm 2001. Tên của ông cũng đã được đặt cho hai con đường ở hai thành phố: Hà Nội và Lạng Sơn.

“… Ông (kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh) đã cùng kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện soạn thảo đề cương về kiến trúc sư phục vụ kháng chiến và sau khi kháng chiến thành công, đồng thời, cũng đặt ra chương trình nghiên cứu quy mô rộng rãi các công trình kiến trúc truyền thống của các dân tộc Việt Nam ở Việt Bắc, trung du và đồng bằng sông Hồng…” (Kiến trúc sư Đoàn Đức Thành-nguyên Ủy viên BCH Hội Kiến trúc sư Việt Nam)

(*) Xem Báo Nhân Dân cuối tuần số 20, xuất bản ngày 19/5/2024 hoặc truy cập đường link:

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Có thể bạn quan tâm

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Làng Nubian trên đảo Elephantine.

Ngôi làng cổ huyền bí giữa dòng sông Nile

Nằm ở phía nam Ai Cập, cách thủ đô Cairo khoảng 800 km, thành phố Aswan bên bờ sông Nile là cửa ngõ của Ai Cập xuống phía nam châu Phi. Đây là nơi sinh sống của người Nubian, một nhóm bộ tộc di cư, đến từ miền bắc Sudan. Điều đó giải thích tại sao họ có tông màu da sẫm hơn người Ai Cập.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu, sau hai lần chuyển địa điểm.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại (★)

Nhiều tài liệu viết về Điện Biên Phủ của tác giả nước ngoài đều khẳng định rằng: Công tác bảo đảm hậu cần là một mặt trận hết sức nóng bỏng và quyết liệt với cả hai bên, bởi nó là cầu nối giữa hậu phương với tiền tuyến.
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".
Với sự cần cù, người dân đã khiến đá trổ xanh. Ảnh: Giang Toan

Khúc tráng ca xứ đá

Đã nhiều lần đến "xứ đá" Hà Giang, song mỗi lần trở lại trong tôi luôn ngập đầy cảm xúc và sự nể phục sức sống mãnh liệt của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nơi đây, đá giăng tứ bề, đá thành rừng thử thách bước chân con người. Cuộc sống vất vả đủ đường nhưng người dân vẫn vươn lên, bám bản, khiến đá nở hoa.
Tác giả bên Bia tưởng niệm Di tích cuộc võ trang vượt ngục ngày 12/12/1952.

Kỳ IV: Ngút trời linh khí (Tiếp theo và hết)

Nơi này là vùng đất thiêng. Mỗi hòn đá cành cây, mỗi đợt sóng dâng trào biển khơi hay sẫm mầu núi biếc Côn Đảo đều có thể kể một câu chuyện về những thời, những người đã qua. Từng tấc đất trên đảo nhỏ giữa trùng khơi đều lưu những dấu tích của lòng uất hận và ý chí ngoan cường của những người Việt vì đại nghĩa Tổ quốc mà có thể hiến dâng cả thân xác vô cùng quý giá của mình.
Nhà Công quán Côn Đảo, nơi nhà soạn nhạc Charles Camille Saint Saens viết chương cuối của vở nhạc kịch "Hoàng hậu Fredegonde".

Kỳ III: Âm nhạc và ngục tù

"Hoàng hậu Fredegonde" là một vở nhạc kịch bất hủ của nhà soạn nhạc thiên tài người Pháp Charles Camille Saint Saens (1835-1921). Ông là một nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn. Tên tuổi của ông được xếp vào những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu theo người đương thời đánh giá và ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp quốc. Vở nhạc kịch và nhà soạn nhạc của quốc gia xa xôi ấy thì có liên quan gì đến Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian" giữa trùng khơi Việt Nam?
Chị Trang (bên phải) và chị Xiêm nỗ lực làm tranh cuốn giấy, vừa để kiếm thêm tiền trang trải chi phí, vừa để quên đi phần nào bệnh tật.

Thổi âm thầm những cơn gió mát

Mùa nắng nóng, có lúc cả bầu trời như cái chảo lửa khổng lồ khiến ngay cả những tán cây cũng teo tóp. Thế nhưng vì mưu sinh, không ít người lao động nghèo vẫn phải oằn mình ngoài đường phố Hà Nội, nhiều bệnh nhân chạy thận trú mình trong những căn phòng trọ vài mét vuông. Trong gian khó vẫn luôn có những bàn tay thiện nguyện trao yêu thương, cách con người đối đãi với nhau như cơn gió mát lành tiếp sức cho mỗi phận người.
Du khách tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng.

Về Mường Phăng nhớ ghé Che Căn

Cái tên Mường Phăng, tỉnh Điện Biên đã đi vào lịch sử và suy nghĩ của nhiều người khi địa danh này là nơi đặt Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Vậy nhưng, nếu đến Mường Phăng thì sẽ biết đến Che Căn. Hiện nay, Mường Phăng nỗ lực biến Che Căn trở thành địa điểm du lịch trọng điểm với lợi thế riêng có là Khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo tại nơi này…
Bé Kiều Oanh và bạn xem phim hoạt hình tại phòng trọ.

Mang yêu thương nâng đỡ yêu thương

Một căn nhà trọ đặc biệt vừa khánh thành tại chợ Tân Phú, phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). "Đặc biệt" vì đây là "nhà trọ 0 đồng" dành cho các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.

Từ những cuộc trao truyền nhạc cụ dân tộc Mạ

Đồng bào dân tộc Mạ có hệ thống các loại nhạc cụ hết sức độc đáo, bao gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi; trong đó có một số nhạc cụ chính như: đàn đá, cồng, chiêng, trống, khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ, kèn môi, khèn sừng trâu, đàn ống tre… Ngoài ra, còn có một số nhạc cụ khác được chế tác từ chất liệu thiên nhiên theo sự sáng tạo ngẫu hứng của một số nghệ nhân.
Nhà dài, kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Ê Đê.

"Buôn trong phố" đã hồi sinh

Không gian đô thị hết sức đặc thù, với những buôn làng của cộng đồng người Ê Đê, được kiến tạo nên từ hàng trăm năm qua, nhưng "cơn lốc" đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã nhanh chóng đẩy những không gian văn hóa đặc biệt đó của TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lùi xa, hoặc biến dạng một cách đáng kinh ngạc.

Già làng - nghệ nhân chỉnh chiêng người dân tộc Mạ.

Kỳ II : Trống cái giữa dàn chiêng

Tôi hỏi: “Thời bây giờ, vai trò của già làng còn thật sự quan trọng nữa không?”. Ông K’Điệp, một trí thức người Cơ Ho nói rằng: “Già làng nói - dân làng nghe; già làng hô - dân làng hưởng ứng; già làng làm - dân làng làm theo. Có nghĩa là vai trò của già làng vẫn rất quan trọng, nhất là trong việc hỗ trợ cấp ủy, chính quyền vận động quần chúng…”.