Chị kể mấy chục năm trở về Đồ Sơn với hai bàn tay trắng, đi ở trọ, viết kịch bản phim, rồi làm phim, viết báo, đủ để mua đất xây nhà ở xóm Chùa. Ngôi nhà rộng và thoáng, chiều chiều chị đi bộ ra biển. Ngôi nhà tựa lưng vào núi, mặt quay ra biển, ngỡ rằng, phong thủy luôn mang hạnh phúc cho chị. Nhưng chị đã khóc khô nước mắt ở ngôi nhà ấy.
Chị kể với tôi, trước khi mất, cậu con trai của chị còn cười bảo mẹ: “Mẹ ngây thơ quá, con sắp đi rồi, chào mẹ…”. Và nó đi rất nhanh khi ăn dối bữa và có vẻ khỏe trở lại. Sau đó Đoàn Lê viết truyện ngắn “Mẹ và con và thánh thần”. Viết như không, mà đau đớn. Đó là một truyện ngắn hay của chị. Rồi chị kể, chị đưa nó về nằm ở sau vườn ngôi nhà để chị chăm chút cho nó.
Đoàn Lê lúc đó lại chọn vẽ để nguôi ngoai. Mầu sắc trong tranh vẫn tươi trẻ và sáng trong, từng học hội họa thầy Dương Bích Liên, Trần Duy, rồi học thêm họa sĩ Bùi Xuân Phái, chị khiêm nhường bảo: “Mình cũng biết đôi tí thôi về hội họa”. Chị vẽ tranh “nuy” phụ nữ cũng đẹp lắm, không gì bằng hiểu biết kỹ về đàn bà, vẽ cho ra tâm trạng đàn bà cũng thích.
Rồi Đoàn Lê đi làm phim, chị lao động trên ba lĩnh vực, văn xuôi, vẽ sơn dầu, và làm phim. Lĩnh vực nào, nghề nào cũng cực nhọc cả. Sức lực không phải là vô hạn, nhưng chị lao động để quên đi hay vùi lấp đi đau khổ. Không rõ và tôi không hỏi chị.
Sau lần đó, xuống Đồ Sơn vài lần chị khoe với tôi vừa làm xong bài thơ tình, “cậu biết không, có một bạn cứ đòi yêu tớ, nên tớ làm bài thơ này đây”.
Bài thơ tuy không dài nhưng trong trí nhớ của tôi chỉ nhớ được có hai câu: “biết đâu phủi tay nhân thế/để đời một mối tình si”. Chị bảo ở tuổi này mà có bạn cứ đòi yêu mình mới vui chứ, nhưng từ chối thế nào để được sống yên và được yên để vẽ. Ở xóm Chùa, chị vẽ mệt thì chơi tú lơ khơ với mấy bạn già, ra biển đi dạo, trồng cây và chăm hoa.
Thời gian cứ vùn vụt trôi đi, có lần xuống Hải Phòng tôi ghé thăm, chị bảo: Tớ cũng chẳng hiểu sao lại cố gắng xây nhà rộng, giờ thấy chả để làm gì, mai kia lên Hà Nội với con, và bỏ lại vườn nhà. Thấy mình sắp phủi tay đi đây đi đó. Ấy là lần chị đi cấp cứu và điều trị mãi mới về nhà.
Lần này chị chia tay cõi tạm, bỏ lại tranh và nhà cửa ven biển, bỏ lại những trang viết và câu thơ tình đắm say một thời. Một thời kể cũng điên, chị cười hiền dịu lắm, rồi thú nhận: “Mình cũng được nhiều chàng yêu quý, và mình cũng yêu quý họ. Nhưng trời đất chẳng cho ai nhiều lắm đâu, đến khi ốm đau thì mọi thứ lại nhìn nhận khác. Hư không lại về hư không mà thôi”.
Lần này nhà văn Đoàn Lê đi về hẳn phía bên kia, chắc không còn đau khổ nữa, người đàn bà đa tài, và có gương mặt vừa sắc sảo, vừa hiền dịu. Người của “Trinh tiết xóm chùa”, “Người đẹp xóm chùa”, “Nghĩa địa xóm chùa”… Mấy ai yêu quê hương có núi có biển như chị, và mấy ai đau khổ, tan nát cõi lòng làm mẹ như chị, để rồi ra đi lại trở về xóm chùa làm hạt cát nghe sóng biển reo. Và cuộc đời sẽ còn neo mãi gương mặt nữ nhà văn, nhà biên kịch, họa sĩ Đoàn Lê.