Tuổi đôi mươi ra trận
Mùa hè năm 1968, chứng kiến nhiều bạn bè của mình lần lượt ra trận, lòng dạ Trịnh Đăng Hảo như có lửa cháy. Là con út trong gia đình, hai anh trai của Hảo đều đã ra tuyến đầu. Anh cả là Trịnh Đăng Bát đang chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị. Anh thứ Trịnh Đăng Hóa là công nhân quốc phòng, tham gia vận chuyển vũ khí vào nam bằng đường sông cho bộ đội ta đánh giặc. Nếu Hảo lên đường nhập ngũ, ai sẽ là người chăm sóc cha mẹ già yếu ở nhà? Có lần đoán được tâm tư của con, người cha nói xa xôi: “Nhà giờ chỉ còn mình con, thôi con chịu khó…”. Lời cha nói, sao có thể làm trái?
Nhưng tiếng súng trận nổ ra ở khắp nơi, kẻ thù ngày càng điên cuồng và hung bạo khiến Trịnh Đăng Hảo không thể ngồi yên. Sau nhiều ngày nung nấu, Hảo quyết định viết tâm thư bằng máu, giấu kín không cho cha mẹ biết. Trong thư, Hảo bày tỏ nguyện vọng tha thiết được lên đường nhập ngũ, làm nhiệm vụ của một thanh niên khi đất nước có giặc. Quyết tâm sắt đá của Hảo đã lay chuyển được các cấp lãnh đạo.
Với Trịnh Đăng Hảo, dù sống ở thôn quê, nhưng anh cảm nhận rất rõ cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt. Năm 1967, Hảo xung phong đăng ký học khóa rà phá bom mìn ngay tại quê nhà là huyện Hưng Nguyên trong vòng một tuần. Vừa học vừa thực hành, anh đã trực tiếp phá được sáu quả bom. Thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm ấy, Trịnh Đăng Hảo không hề chùn bước. Đây cũng là kinh nghiệm quý báu giúp anh tự tin hơn khi bước vào chiến trường sau này.
Sau khi lá đơn viết bằng máu được phê duyệt, Trịnh Đăng Hảo đã ở trong đội hình 12 thanh niên của xã lên đường nhập ngũ và được cử sang nước bạn Lào làm nhiệm vụ quốc tế từ tháng 4/1969. Anh được biên chế vào tiểu đoàn 43.
Tháng 9/1969, anh cùng các đồng đội nhận tin dữ từ quê nhà: Hồ Chủ tịch qua đời. Nỗi đau đớn, tiếc thương bao phủ lên toàn mặt trận.
“Phải biến đau thương thành hành động!”.
Những người lính động viên nhau xốc lại tinh thần.
Ngay trong năm đó, tháng 12/1969, tiểu đoàn của Trịnh Đăng Hảo đã đánh chiếm được cứ điểm Sa Nọi, đánh chiếm cao điểm Búc Sừa, tiêu diệt sinh lực địch và thu về nhiều vũ khí. Với những thành tích trong chiến đấu, ngày 13/1/1970, Trịnh Đăng Hảo được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng.
Đến bây giờ người lính già Trịnh Đăng Hảo vẫn nhớ từng chi tiết lễ kết nạp Đảng tại trận địa năm ấy. Trước lễ kết nạp, anh cùng các đồng đội đã chặt mấy khúc cây rừng đặt dọc hai bên lối đi làm ghế để các đảng viên ngồi. Chủ trì lễ kết nạp có đồng chí Võ Văn Vinh (người Quảng Nam) là Chính trị viên tiểu đoàn, Bí thư đảng ủy và đồng chí Lê Mạnh Hùng Tiểu đoàn trưởng (người huyện Quỳnh Lập, Nghệ An). Giữa mặt trận, không có cờ Đảng, Chính trị viên Võ Văn Vinh đã có sáng kiến lấy ảnh Bác trong sổ tay treo lên thân cây để thay thế. Lễ kết nạp tuy đơn sơ, thiếu thốn nhưng vô cùng trang nghiêm, xúc động.
Dư âm cuộc chiến
Trong dòng hồi tưởng về chiến tranh của cựu chiến binh Trịnh Đăng Hảo không chỉ có những chiến thắng, vinh quang. Điều mà ông luôn trăn trở đến tận bây giờ là số phận những người còn nằm lại ở chiến trường nước bạn. Ông nhắc nhiều về câu chuyện của 12 người đồng hương cùng nhập ngũ năm 1969, nhưng đến khi trở về chỉ còn có sáu người. Ông ngậm ngùi đọc tên từng đồng đội, đó là Phan Quang Minh người ở ngay sát nhà ông, Nguyễn Văn Cúc, Ngô Sửu, Thiều Văn Toàn, Trần Đại Nghĩa và Phạm Văn Cảnh. Những cái tên ấy vĩnh viễn nằm lại trong trí nhớ của ông.
Trong số đó, ông nhớ mãi người đồng đội Phạm Văn Cảnh. Ông kể, chiều tối hôm định mệnh ấy, ông và Cảnh còn chia nhau gói lương khô, vắt cơm nắm ở trong hầm. Rồi cả hai trải lá để nằm nghỉ. 11 giờ đêm, hai người chia nhau đi trinh sát trận địa trước trận đánh. Không may địch phát hiện ra Cảnh, bắn bị thương nặng. Ông cùng các đồng đội lập tức đưa Cảnh nằm nghỉ dưới gốc cây săng lẻ, dặn Cảnh chờ để anh em tập trung quay lại đánh chặn địch. Trận đánh đôi bên kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Tranh thủ lúc địch rút lui, anh em quay lại tìm thì không thấy Cảnh đâu nữa. Suốt hai ngày sau đó, đồng đội tỏa đi tìm khắp các bụi cây, khe đá nhưng không thấy dấu vết nào còn sót lại của Cảnh. Giữa trận địa khét mù thuốc súng, quân thù giăng mắc, Cảnh có thể đi đâu? Nỗi đau mất đồng đội vẫn còn nhoi nhói trong ngực ông cho đến tận bây giờ.
Mình phải làm gì? Câu hỏi đó luôn thôi thúc ông ngày trở về.
Nhiệm vụ người còn sống
Năm 1988, người lính Trịnh Đăng Hảo rời quân ngũ, trở về địa phương. Từ đó đến nay, ông vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với các đồng đội cùng tiểu đoàn 43. Tâm tư của những người lính trở về thật trùng hợp, đó là một lòng nghĩ đến các đồng đội vẫn nằm lại chiến trường Lào, không có tên tuổi trên mộ chí, xót xa vô cùng. Chính vì vậy các anh em bàn nhau, thực hiện hành trình đi tìm đồng đội, đưa họ trở về quê hương.
Trong những chuyến đi đáng nhớ ấy, ông kể cho tôi nghe về quá trình tìm hài cốt của ba đồng đội là Võ Văn Hùng (Thạch Sơn, Thạch Hà, Hà Tĩnh); Trần Quang Trung (người Diễn Thọ, lên sinh sống ở Nghĩa Hội, Nghĩa Đàn, Nghệ An); Nguyễn Nam Giang (người Hưng Lam, Hưng Nguyên lên sống ở Nghĩa Hội, Nghĩa Đàn, Nghệ An). Cả ba hy sinh ngày 18/3/1976 tại chiến trường Lào. Trưa hôm đó, ba anh đang ngủ trong doanh trại thì bị địch tập kích, ném mìn khiến cả ba không ai toàn thây. Nhân chứng duy nhất còn sống khi đó là Phan Văn Trìu (Đồng Thành, Yên Thành, Nghệ An). Trước đó, vì trời nóng nên Trìu mắc võng ngoài rừng để ngủ, nên lúc địch tập kích doanh trại anh may mắn trốn thoát.
Trong hành trình đi tìm đồng đội, cựu chiến binh Trịnh Đăng Hảo cùng các anh em đã gặp gỡ bàn bạc cùng thân nhân của ba liệt sĩ, đồng thời tìm gặp Trìu với tư cách nhân chứng để xác định lại vị trí doanh trại. Sau nhiều cuộc kiếm tìm, tháng 10/2018, các đồng đội đã may mắn tìm thấy hài cốt ba liệt sĩ ở khu vực bản Na Khòn, Mường Mộc, tỉnh Xiêng Khoảng (Lào). Năm 2019, đồng đội đã đưa các anh về bàn giao cho Huyện ủy Mường Mộc. Tháng 5/2020, sau khi được Quân khu tỉnh ủy xác nhận danh tính liệt sĩ theo đúng quy định, các anh đã được đưa về, chôn cất trong nghĩa trang. Nỗi lòng cựu chiến binh Trịnh Đăng Hảo và các đồng đội đã có thể vơi nhẹ phần nào.
Người lính già Trịnh Đăng Hảo rưng rưng kể lại cho tôi nghe những kỷ niệm đặc biệt về ba đồng đội đã hy sinh. Như Võ Văn Hùng mang theo mình hai chiếc nhẫn, vì lúc lên đường làm nhiệm vụ chưa kịp trao lại cho người yêu. Hai người đã có ước nguyện với nhau, chiếc nhẫn là giao kết, hẹn ngày trở lại, đôi lứa nên duyên. Vậy mà cuối cùng chiếc nhẫn vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Hay anh Thiều Văn Toán, vừa cưới vợ, cuộc sống lứa đôi mới chỉ vỏn vẹn được ba ngày thì anh nhận lệnh lên đường, sang chiến trường Lào. Đó cũng là chuyến đi dài nhất của cuộc đời người lính trẻ, để khi đoàn tụ thì vợ chồng đã âm dương cách trở. Chính những số phận đặc biệt của người lính trong chiến tranh ấy đã thúc giục Trịnh Đăng Hảo và những người đồng đội của mình không quản ngại khó khăn, tuổi tác, vẫn bền bỉ với hành trình đưa những người đã khuất trở về bên gia đình. Ông sợ nếu không nhanh, sức khỏe mình không còn, trí nhớ suy giảm, lực bất tòng tâm, cơ hội tìm được đồng đội càng mong manh hơn. Những người nhập ngũ cùng ông năm ấy giờ cũng đều vào tuổi ngoài 70…
Bên cạnh hành trình đi tìm đồng đội, bao năm qua, cựu chiến binh Trịnh Đăng Hảo còn tích cực tham gia các công việc hỗ trợ vật chất, tinh thần đối với thân nhân các gia đình liệt sĩ; ủng hộ, động viên vợ liệt sĩ tái giá. Ông bảo chiến tranh đã qua, những người vợ, người mẹ ở nhà đã chịu quá nhiều thiệt thòi. Vậy nên họ cần có nơi nương tựa mới, tìm kiếm hạnh phúc mới thay vì sống cô quả đến hết đời.
Không chỉ thực hiện những công việc nghĩa cử vì đồng đội, ông còn nhiệt tình tham gia các hoạt động tại địa phương như tham gia đại biểu HĐND, tham gia thường trực quân tình nguyện và chuyên gia quân sự tỉnh Nghệ An… Đến nay, ở tuổi ngoài 70, ông chưa cho mình được phép nghỉ ngơi, vui hưởng tuổi già. Bởi ông luôn tâm niệm và luôn sống đúng với phẩm chất của người lính Cụ Hồ: hết mình vì nhân dân phục vụ. Nếu còn làm được gì có ích cho những người đồng đội, cho cộng đồng, ông không bao giờ quản ngại.