Tại Việt Nam, tăng trưởng xanh tuy đã được nhiều địa phương quan tâm, nhiều doanh nghiệp ứng dụng song chưa thành xu thế do các bên liên quan chưa ý thức được tầm quan trọng so với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, số đông người dân và doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ về sự cấp thiết của vấn đề này. Phải chăng đây sẽ là điểm yếu đặc biệt đối với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thưa Bộ trưởng?
Nhìn nhận lại chặng đường phát triển vừa qua, đánh giá chung của Chính phủ và các tổ chức nghiên cứu trong nước và quốc tế là kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa ổn định. Có thể nói phát triển giai đoạn vừa qua thực chất là “nâu”, vẫn còn dựa nhiều vào đẩy mạnh khai thác tài nguyên thiên nhiên, tăng vốn đầu tư, thâm dụng lao động, trong khi việc sử dụng tài nguyên, năng lượng chưa hiệu quả, cường độ phát thải khí nhà kính cao dẫn đến ô nhiễm môi trường gia tăng. Hơn nữa, một số thách thức về bảo đảm an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước, tính dễ bị tổn thương của một số ngành kinh tế, cộng đồng dân cư tăng lên trong điều kiện nhiều vùng miền chịu nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Điều này đang ảnh hưởng đến việc hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Với nhận thức về tầm quan trọng của tăng trưởng xanh để giải quyết những thách thức nêu trên và được sự hỗ trợ của các đối tác phát triển, ngày 25-9-2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh. Chiến lược này đề ra ba nhiệm vụ quan trọng: giảm phát thải nhà kính, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững.
Chiến lược Tăng trưởng xanh là một hệ thống các chương trình, kế hoạch hành động và chính sách đa ngành, đòi hỏi sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, người dân các vùng miền, các doanh nghiệp và tổ chức chính trị xã hội. Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 6-2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã xác định tăng trưởng xanh là nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện. Dù vậy, tăng trưởng xanh là hướng đi mới trên thế giới đã được giới thiệu cách đây khoảng 8 - 10 năm, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong xây dựng và thực hiện cả về thể chế, chính sách, huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện, cũng như cách thức nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Việc triển khai kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh là nhằm giải quyết những hạn chế này. Trong điều kiện hiện tại, nhận thức của nhiều địa phương và doanh nghiệp còn tập trung nhiều vào phát triển kinh tế theo chiều rộng, chưa thấy được lợi ích và tác động tích cực lâu dài của tăng trưởng xanh. Dù giai đoạn đầu thực hiện tăng trưởng xanh sẽ có khó khăn trong tái cấu trúc doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, nhưng về lâu dài doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội trong tiếp cận, thâm nhập thị trường, phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy đây là hướng đi thách thức nhưng sẽ bảo đảm doanh nghiệp phát triển bền vững và có trách nhiệm với xã hội.
Khu liên hợp xử lý chất thải Đa Phước (TP Hồ Chí Minh). Ảnh: Văn Phú
Vậy có thể hiểu thực hiện chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm?
Tăng trưởng xanh là tiếp cận để chuyển nền kinh tế từ “nâu” sang “xanh” theo hai hướng chính là xanh hóa sản xuất và xanh hóa tiêu dùng. Ngay việc xanh hóa sản xuất đòi hỏi xanh hóa các ngành hiện tại và phát triển những ngành sản xuất xanh mới. Nhiều quy hoạch ngành, địa phương trước đây được lập trên cơ sở tiếp cận truyền thống dựa vào tăng nguồn vốn đầu tư, tận dụng lợi thế chi phí lao động thấp, khai thác, sơ chế tài nguyên để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa tính kỹ đến sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, cường độ phát thải khí nhà kính, chi phí xử lý ô nhiễm môi trường và khả năng cân đối nguồn lực của nền kinh tế. Để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững theo hướng tiếp cận tăng trưởng xanh, công nghiệp hóa sạch, Kế hoạch hành động quốc gia yêu cầu các bộ, ngành rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm. Hiện nay, trong quá trình chuẩn bị Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016-2020, nhiều bộ, ngành, địa phương đang thực hiện công việc này.
Còn việc tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức chính trị -xã hội thì như thế nào?
Như tôi đã nói, cùng với việc hình thành và phát triển thể chế thực hiện tăng trưởng xanh thì công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức là hoạt động ưu tiên. Khác với nhiều chiến lược, chương trình, kế hoạch khác, chiến lược tăng trưởng xanh cần sự tham gia tích cực, trực tiếp của doanh nghiệp. Các kế hoạch hành động tăng trưởng xanh của ngành và địa phương không thể thành công nếu doanh nghiệp tại đó không nhận thức được ý nghĩa, vai trò cũng như cách thức thực hiện tăng trưởng xanh tại doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu, các cơ quan quản lý nhà nước cần đóng vai trò định hướng, có các giải pháp hỗ trợ để khuyến khích một số doanh nghiệp tiên phong làm thí điểm, từ đó giới thiệu các mô hình thành công để nhân rộng.
Cộng đồng doanh nghiệp đang có những thay đổi nhận thức, xu hướng đầu tư để sản xuất xanh, sạch, thể hiện trách nhiệm xã hội. Một trào lưu đầu tư vào nông nghiệp, ứng dụng sản xuất xanh đã và đang hình thành. Xu hướng này cần được tuyên truyền, cổ động để trở thành một hướng đi chủ yếu trong đổi mới doanh nghiệp?
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp đang chuyển hướng đầu tư sang sản xuất xanh, sạch, thể hiện trách nhiệm xã hội. Xu hướng này phù hợp với quy luật, thể hiện sự thay đổi nhận thức của doanh nghiệp. Ở một số địa phương như Lâm Đồng, Đà Nẵng... tôi cũng được biết cộng đồng doanh nghiệp đang tích cực triển khai một số dự án, sáng kiến, hoạt động trình diễn về năng lượng mới, cải thiện hiệu quả năng lượng, nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó, đã có nhiều cộng đồng, tổ chức chính trị xã hội tích cực vận động thực hiện lối sống xanh, điều này cổ vũ cho những nỗ lực của doanh nghiệp. Để điều này trở thành hiện thực, các cơ quan hoạch định chính sách phát triển cần có nhiều chính sách hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp.
Tuổi trẻ Thủ đô đi bộ hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới. Ảnh: Trần Hải
Xin Bộ trưởng cho biết đâu là giải pháp đột phá trong triển khai chiến lược Tăng trưởng xanh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay?
Từ Chiến lược đến Kế hoạch hành động và triển khai thực tế là một quá trình lâu dài với nhiều thách thức từ hình thành và phát triển thể chế, chính sách, phân công tổ chức thực hiện, huy động các nguồn lực tài chính và công nghệ đến theo dõi, đánh giá, báo cáo tình hình thực hiện. Do đó, việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, hỗ trợ quốc tế có vai trò hết sức quan trọng. Theo ước tính, tổng kinh phí để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cần đến khoảng 30 tỷ USD, trong đó dự kiến 70% là đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam còn thiếu công nghệ và kinh nghiệm để thực hiện toàn diện tái cấu trúc các ngành và triển khai các dự án đổi mới công nghệ, việc huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước cũng ngày càng hạn chế thì giải pháp đột phá thực hiện tăng trưởng xanh là cần hình thành các kế hoạch hành động, các dự án ưu tiên cho biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh. Cần nâng cao năng lực và kiện toàn tổ chức hiện có, tăng cường năng lực dịch vụ tài chính, ngân hàng và thị trường tiền tệ để huy động các nguồn lực tài chính; sử dụng kết quả nghiên cứu về đầu tư cho tăng trưởng xanh và biến đổi khí hậu để hoàn thiện và ban hành hướng dẫn đầu tư công xanh, bảo đảm hiệu quả đầu tư, tăng cường vận động tài trợ, phối hợp các tổ chức nước ngoài, các quốc gia trong khu vực để học hỏi kiến thức, kinh nghiệm. Bên cạnh đó, thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân, nguồn đầu tư nhà nước và ODA sẽ là chất xúc tác để thu hút, hình thành môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh (dưới hình thức chuyển đổi công nghệ/dự án thí điểm/nghiên cứu điển hình); giới thiệu các mô hình hợp tác công tư (PPP) trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất điện. Đồng thời cần xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá, ghi nhận thành quả một cách công khai, minh bạch, công bằng về những đóng góp của khu vực tư nhân, các doanh nghiệp đồng hành cùng tiến trình thực hiện tăng trưởng xanh thông qua các hình thức vinh danh, khen thưởng ở cấp cao và ưu tiên tiếp cận vốn, hỗ trợ... Với một số luật và nghị định quan trọng được ban hành trong thời gian gần đây như Luật Đầu tư công, Nghị định số 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, chúng ta sẽ có cơ sở pháp lý để các chính sách công, nguồn lực công làm tốt hơn vai trò xúc tác, dẫn dắt, thu hút các nguồn đầu tư ngoài khu vực công vào lĩnh vực quan trọng này.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
| Đã có nhiều cộng đồng, tổ chức chính trị xã hội tích cực vận động thực hiện lối sống xanh, điều này cổ vũ cho những nỗ lực của doanh nghiệp. Thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân, nguồn đầu tư nhà nước và ODA sẽ là chất xúc tác để thu hút, hình thành môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh. |