Ai cũng biết là Xít-ni có "nhà Sò" (nhà hát operaquốc gia), tôi thì chẳng mấy lưu tâm. Lang thang qua đó mấy lần, những "ố" những "á" ban đầu cũng nhanh chóng tắt lịm. "Nhà Sò" chỉ thật sự đẹp về đêm, nhất là những đêm lễ hội đầy ánh sáng hoa đèn, mà tôi thì vừa thiếu cái tâm hồn nghệ sĩ để dễ dàng rung động, vừa chẳng ưa những chỗ đông người.
Xít- Ni, với tôi, "trần tục" lắm! Đó là bao thuốc lá Winfield giá xấp xỉ 300 nghìn VND, là những cốc cà-phê loãng toẹt uống vội tại quận ngoại vi nhiều người Việt Bankstown, là vại bia Victoria (ngon cũng phải gần bằng bia Hà Nội!) giá sáu đô-la (AUD), là tô phở to như cái chậu, là giá vé xe buýt đồng hạng năm AUD, là tất cả mọi phương tiện giao thông đều đi bên trái đường, là lời dặn của bạn bè "Đừng gọi điện thoại trong giờ làm, nghe là bị phạt!", là bãi biển Bondi nước lạnh buốt giữa trưa hè, là năm AUD cho một giờ sử dụng internet trong khách sạn, là nền thể thao chuộng bóng bầu dục hơn bóng đá...
Về mặt cảnh quan, quận trung tâm Xít-ni (City of Sydney) là một thứ hỗn hợp kỳ quặc. Những tòa cao ốc hiện đại cứ thản nhiên ghé vào ngồi cạnh những kết cấu kiến trúc thời thuộc địa. Tượng thần A-pô-lô (Apollo, thần thoại Hy Lạp) thì vô tư xoay lưng vào đại thánh đường Xanh Me-ri (St Mary). Con đường nào cũng có cái gì đấy dành cho những người yêu thích nhiếp ảnh, và cũng có cái gì đó "kỳ kỳ"...
Xít- Ni là một cửa hàng "bách hóa tổng hợp", mà Xít-ni cũng là bao nhiêu nỗi cô đơn. Không kiếm nổi một người bạn khề khà trong giờ hành chính ban ngày, tôi đặt nỗi cô đơn của mình vào đồng một AUD, thả xuống chiếc mũ của người nghệ sĩ đường phố một mình chơi đàn hay chàng sinh viên đóng giả tượng sáp tìm kinh phí cho một dự án xã hội nho nhỏ. Rất ít người quan tâm đến họ. "Ở đây phúc lợi xã hội cao, nhưng phí sinh hoạt cũng đắt, dư tiền đâu mà cho người ta hả anh?" - lời giải thích của một đứa em.
Tôi "tận hưởng" sự cô độc của mình một cách "thỏa thuê" nhất, là trong những tối bách bộ ở khu "nhà giàu" Mosman, trên con phố từng đoạt giải "Đường đẹp nhất trong năm", mang tên Raglan. Mười giờ tối bên ấy đã là hai giờ sáng ở Việt Nam, nên không nỡ gọi về, sợ lỡ một giấc ngủ. Cứ đi, giữa những hàng hiên biệt thự đã tắt đèn, giữa những chiếc xe nằm nối nhau im lặng, giữa tiếng thở nhè nhẹ của vịnh Xít-ni vẳng đến. Điếu thuốc cuốn cẩu thả chưa bao giờ rít sâu đến thế.
May mà còn những mùi hoa tẩm vào, làm trong trẻo bớt cho hơn hai tuần vào vai một kẻ lang thang bất đắc dĩ trên mảnh đất ấy. Hoa nguyệt quế nở khắp nơi, trắng xóa những hè phố, trắng xóa cả sân chùa Phước Huệ với những lời kinh thành tín bằng tiếng Việt. Hoa oải hương đón chân người mỏi mệt lê về bậc thang vắng lúc gần nửa đêm. Những loài hoa gì nữa không biết tên, làm dịu bớt cái nắng trưa, khi dừng chân nghỉ bên đường, tự hỏi mình sẽ làm gì cho hết ngày.
Tôi đã ở đó, trong mùa hè nam bán cầu, nắng cháy da như nắng miền trung, mưa thê thiết như mưa Đà Lạt. Tôi đã ở đó, gặm nhấm sự lạc lõng cũng như những niềm nhớ của kẻ "giang hồ vặt". Đặt chân xuống Nội Bài, ôm lịm một vòng tay, lại chẳng nhận ra rằng mình cũng nên cảm ơn Xít-ni...